Cá voi đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tâm linh của cư dân vùng biển Nam Bộ. Vì thế ở hầu hết các làng ven biển đều có tục thờ cá voi thậm chí, ngay cả những vùng nằm sâu trong đất liền cũng có lăng thờ loài cá này.
Theo Đại Nam nhất thống chí thì cá Voi được gọi là Đức Ngư. Cuốn sách này còn ghi rõ “Đức Ngư đầu tròn, nơi trán có lỗ phun nước ra, sắc đen trơn láng, không có vảy, đuôi có mảng như đuôi tôm, cá tánh từ thiện hay giải cứu cho người khi qua biển mắc cạn. Đầu niên hiệu Minh Mạng vua đặt cho tên là Nhân Ngư, đầu niên hiệu Tự Đức đổi lại tên này (Đức Ngư). Loại cá này trong Nam Hải thì linh, còn ở biển khác thì không linh”.
Bộ xương cá voi ở đình ông Nam Hải.
Nếu như các quốc gia ở phương Tây coi cá voi là một nguồn lợi lớn có giá trị kinh tế cao, thì các dân tộc ở vùng Đông Nam Á lại coi cá voi như linh vật, ân nhân cứu mạng của mình. Cá voi là một Phúc thần của biển cả mà họ luôn tôn kính và được dân gian thành kính gọi bằng nhiều danh xưng trang trọng như: ông Khơi, ông Lộng, ông Nam Hải... và được các vua nhà Nguyễn sắc phong là Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thượng Đẳng Thần. Cá voi ở vùng Đông Nam Á không hề bị giết hại, thậm chí ý thức bảo vệ cá voi còn được ngư dân nâng lên gần như là một phong tục một tín ngưỡng mà đa phần những người làm nghề biển đều phải tuân theo.
Cho đến nay, có rất nhiều truyền thuyết, giai thoại, truyện kể trong dân gian liên quan đến tục lệ thờ cá ông. Tục truyền rằng, cá voi là tiền thân của đức quan thế âm Bồ Tát đã có lần hóa thân để cứu khổ chúng sinh. Ngài hóa thân thành cá voi đi tuần du biển Nam Hải.
Một hôm, trên tòa sen nhìn lướt qua sóng gió đại dương, ngài không khỏi đau lòng khi thấy muôn vàn sinh linh gặp cơn phong ba bão táp phải bỏ mình vì giông tố, mà những nạn nhân đáng thương này chỉ là những ngư dân hiền lành lấy nghề đánh cá để nuôi thân. Trước cảnh tượng đau lòng đó, Bồ Tát liền cởi chiếc pháp y, xé tan thành từng mảnh nhỏ ném xuống mặt biển mênh mông.
Mỗi mảnh vụn theo nguyện ý của Bồ Tát đã biến thành một con cá voi với trách nhiệm cứu nguy đám ngư dân lâm nạn trước bão tố của Nam Hải đại dương. Kể từ đó, cá voi là ân nhân của đám thuyền chài sống trên biển cả.
Tuy nhiên, hình vóc cá voi lúc đó tương đối nhỏ không đủ sức chống chọi với sóng to gió lớn, do vậy đức Quan Thế Âm liền mượn bộ xương của ông Tượng (voi) trên rừng cho đàn cá, nhờ thế đàn cá mới đủ sức mạnh chống lại sức mạnh của đại dương. Cũng vì thế, đàn cá mang tên là cá voi (vì mượn xương voi và cũng vì to lớn như voi).
Với sức vóc to lớn, cá voi mặc sức vẫy vùng giữa biển cả và đương đầu với sóng to gió lớn, kèm giữ cho thuyền, ghe được thăng bằng, không bị tan vỡ trong bão tố, lại dìu cho ghe thuyền vào tận bờ biển. Tuy nhiên do to lớn nên chậm chạp, nhiều trường hợp biết có thuyền chài lâm nạn nhưng ở quá xa, cá voi cố sức bơi tới cũng không cứu kịp nạn nhân. Để giúp cho cá voi làm tròn nhiệm vụ cứu nạn của mình, Bồ Tát liền ban cho chúng phép thâu đường, dù ở bất cứ nơi nào cần đến đều có thể cứu kịp thời.
Một câu chuyện khác lại kể rằng: vào khoảng năm 1799, trong lúc Nguyễn Ánh bôn tẩu Tây Sơn, tìm đường chạy sang Xiêm thì gặp cơn bão lớn làm thuyền ông chao đảo. Đúng lúc ấy, có con cá voi đến nâng thuyền lên và đưa vào bờ nên ông mới thoát nạn. Vì lẽ đó, vào năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu là Gia Long, nhớ ơn cá ông đã cứu giúp mình nên mới sắc phong cho ông là Nam Hải Đại Tướng Quân.
Cho dù bắt nguồn từ truyền thuyết nào đi nữa, trong dân gian Nam Bộ, nhất là những ngư dân ven biển thì cá voi (còn gọi là cá ông) là một động vật linh thiêng thường xuyên cứu giúp những người gặp nạn trên biển. Ngư dân, mỗi khi ra khơi, nếu gặp chuyện gì bất trắc thì họ lập tức cầu "ông", mong “ông” đến cứu giúp. Họ cho rằng, lần nào “ông” cũng đến kịp thời để cứu vớt những người bị tai nạn trên biển và khi gặp cá “ông” lụy (chết), dân làng biển coi như gặp điều lành, tin rằng sẽ được phù hộ.
Theo quy ước, người phát hiện “ông” lụy đầu tiên được xem là người được “ông” tín nhiệm, do đó được vinh hưởng chức trưởng nam, thay mặt dân làng chịu tang ông trong suốt 100 ngày. Khi phát hiện “ông” lụy, người ta tìm cách dìu xác “ông” vào bờ, và vạn trưởng huy động dân làng đưa ông lên bờ để làm lễ an táng. Trường hợp gặp phải xác cá ông quá lớn thì người ta dùng đăng quàng lại, cử người canh giữ cho đến khi thịt rã hết mới lấy bộ xương đưa lên lăng thờ.
Thời Nguyễn, còn có quy định, làng nào bắt gặp cá ông chết thì lý trưởng phải trình lên phủ, huyện để quan cho lính về khám định, cấp tiền tuất, hương đèn, vải đỏ quấn đủ 7 vòng và cho khâm liệm, cấp đất xây lăng và ruộng hương hỏa để thờ. Nghi thức tang chế hoàn toàn dựa vào “Thọ Mai Gia Lễ”, rất long trọng tuy có rút gọn hơn so với lễ tang người. Sau đó, đủ ba năm thì cải táng, lấy xương xếp vào quách, khạp đưa vào lăng đã xây sẵn để thờ. Lăng ông có người trông coi, hương khói, có một hội đồng quản lý lăng.
Ngày lễ cúng ông diễn ra giữa các nơi không đồng nhất, điều này phụ thuộc vào ngày cá ông lụy. Hễ cá ông lụy vào ngày nào thì người ta lấy ngày đó làm ngày cúng. Nhưng thông thường, cá ông thường lụy vào những tháng có biển động, có gió bão nhiều. Vì vậy, ở Bình Đại, Bến Tre thì lấy ngày 16/6 âm lịch để cúng còn ở Sông Đốc, Cà Mau lấy các ngày 14, 15, 16 tháng 2 âm lịch; Cầu Ngang, Trà Vinh thì cúng vào ngày 10,11,12 tháng 5 âm lịch.
Lễ cũng tổ chức quy mô lớn hay nhỏ cũng phụ thuộc vào tình hình kinh tế của từng địa phương. Năm nào, địa phương nào làm ăn khấm khá, đi biển đánh bắt được nhiều cá tôm... thì năm đó địa phương đó sẽ cúng lớn, còn ngược lại thì cúng nhỏ. Duy có điều, vật phẩm dùng để cúng trong ngày lễ này thì gần như không có sự khác biệt lớn giữa các địa phương.
Về cơ bản, nghi thức cúng cá ông không khác mấy so với nghi thức cúng ở đình làng, gồm nhiều nghi lễ và trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Thông thường thì, lễ hội nghinh ông được bắt đầu từ lúc rạng sáng. Một đoàn thuyền được chuẩn bị sẵn để ra khơi. Hằng trăm chiếc tàu đánh cá của ngư dân trong và ngoài tỉnh được trang trí cờ hoa, neo đậu ken đặc dưới bến sông. Mặc dù vậy, các ghe này đều đậu một cách rất trật tự, có hàng có lối và trông rất đẹp mắt. Đi đầu là chiếc ghe chính có trọng tải lớn, chủ lễ trực tiếp rước lư hương lên tàu. Tàu được trang trí rất công phu, lộng lẫy và lớn nhất. Có khi người ta kết từ ba chiếc tàu lại. Trên tàu có kết hoa, treo cờ, có bàn hương án và bài vị thủy tướng, có trang bị dàn nhạc ngũ âm và một số người biết hát múa ăn mặc chỉnh tề, hướng thẳng ra biển.
Ra tới cửa biển, nhiều tàu khác tiếp tục được nhập vào đoàn diễu hành. Hàng trăm đến hàng ngàn tàu đủ mọi kích cỡ, công suất, kiểu trang trí tạo ra một khung cảnh đầy màu sắc sống động cả một vùng cửa biển rộng lớn. Tiếng sóng nước, tiếng động cơ ầm ầm vang xa. Hàng ngàn người đủ mọi sắc áo đứng ngồi trên boong tàu vẫy cờ hoa lung linh trong cảnh non nước mây trời xanh ngắt pha lẫn khói tàu lan tỏa trên mặt biển. Trong khi đó, ở trên bờ, tiếng kèn, tiếng trống, tiếng nhạc nổi lên rộn rã.
Trên đường diễu hành, nếu gặp cá ông phun nước (ông dọi) thì đoàn tàu quay trở về ngay. Nếu không gặp thì đoàn tàu tiếp tục ra khơi, khi ra đến địa điểm đã định thì dừng lại. Vị chủ lễ mặc áo dài đen, chít khăn, chân đi hài, ra lệnh gióng ba hồi trống, rồi làm lễ dâng hương, dâng rượu, đọc sớ cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, biển nhiều tôm cá, sau đó làm lễ xin keo rước ông về. Tại lăng sẽ tiếp tục diễn ra các nghi lễ cúng bái đến tận khuya.
Tiếp theo là lễ cúng tiền hiền, hậu hiền, có đọc văn tế, có tổ chức học trò lễ dâng hương, và thức cúng làm từ thịt gia súc, gia cầm là chính. Lễ chánh tế bắt đầu từ 24 h cùng ngày. Thức cúng thường là một con heo trắng, hai mâm xôi đắp cao, có cả rượu và trà, có học trò lễ dâng hương và dàn ngũ âm tấu nhạc.
Trong khoảnh khắc này, khoảng cách giữa thần linh và đời sống dân dã dường như không còn nữa. Tục thờ cá ông của cư dân Nam bộ là một đạo lý cổ truyền, thấm đượm tính nhân văn của dân tộc. Và lễ hội nghinh ông chính là dịp để thỏa mãn nhu cầu đền ơn, đáp nghĩa của cư dân vùng biển đối với đấng cứu nhân độ thế, được con người tôn sùng và biết ơn.
Báo Cần Thơ