Cha tôi theo chân Cang-rư-sân-cơ đi về phía 7 đứa trẻ Ama Thượng, cười hỏi: “Các cháu gọi nó là Cang-rư-sân-cơ, chú cũng gọi nó là Cang-rư-sân-cơ, vậy Cang-rư-sân-cơ nghĩa là gì?” Thằng bé đầu to dùng cằm cố hất tay người đàn ông cao to đang nắm vai nó, ngoảnh đầu nhìn thằng bé mặt sẹo nói: “Sư tử núi Tuyết”. Cha tôi hỏi lại: “Cang-rư-sân-cơ là sư tử núi Tuyết ư? Sao các cháu biết?” Thằng bé đầu to ngớ ra, không hiểu sao cha tôi lại hỏi như vậy. Cha tôi nói to: “Chú bảo cho các cháu biết, phật sống Tan-Trân chủ trì chùa Chia-cu Tây nói Cang-rư-sân-cơ là sư tử núi Tuyết trên núi A-ni-ma-chinh đầu thai. Kiếp trước nó đã bảo vệ các vị tăng tu hành trên núi tuyết. Nó là con chó thần. Không ai được phép ức hiếp nó. Các cháu nói lại lời chú bằng tiếng Tạng, nói thật to, để mọi người cùng nghe.” Mặt sẹo hỏi đầu to: “Chú ấy nói gì đấy?” Đầu to thuật lại với nó. Thằng bé mặt sẹo thông minh không kém Cang-rư-sân-cơ, hiểu ngay ý cha tôi. Nó gần như gào lên thuật lại những gì cha tôi nói.
Rồi cha tôi như chẳng có chuyện gì, đến gần 1 đao phủ đeo mặt nạ đầu Ngao, giơ ngón tay cái lên cười nói: “Đao của anh mới đẹp làm sao! Tôi chưa từng thấy đao nào trang trí đẹp thế này.” Gã đao phủ thấy cha tôi mặc trang phục người Hán, biết cha tôi là người của Ủy ban công tác Chia-cu Tây bèn cười cười với ông sau mặt nạ. Cha tôi cảm thấy người đao phủ có vẻ hữu hảo với mình, không cần biết anh ta có nghe hiểu mình nói gì hay không, ông chìa tay ra nói: “Có thể cho tôi xem đao của anh được không?” Người đao phủ không hiểu cha tôi muốn gì, lúng túng lắc đầu. Cha tôi thò tay vào lòng anh ta, cầm lấy chuôi đao. Người đao phủ hơi do dự một chút, nhưng rồi cũng buông tay ra. Cha tôi cầm đao, dưới ánh nắng chói lọi, ngắm nghía cán rồi mũi dao.
Vừa lúc đó dưới đài hành hình có tiếng huyên náo, đàn chó sủa vang. Cha tôi ngẩng đầu lên thấy 7 pháp sư đội mũ đỏ giơ kích lên cao, 7 người đội mũ đen cũng giơ trống hình đầu người lên cao, 7 phù thủy đội mũ vàng giơ gậy thiết ma gắn các vòng loảng xoảng lên. Những pháp sư của các bộ lạc khi giơ cao pháp khí đều quay đầu hướng về 1 lối do dòng người tự giãn ra. 1 đoàn người ăn mặc sang trọng từ lối đó tiến về phía đài hành hình. Những người mục đồng đứng 2 bên lặng lẽ cúi xuống kính cẩn chào. Thậm chí đàn chó cũng im không sủa nữa, ngay cả tiếng sủa vui mừng cũng không có. Cha tôi thấy trong đoàn người có quản gia Chi-Mây mà cha tôi vừa gặp buổi sáng mới đoán đây là những người có địa vị thế nào. Nhưng cha tôi không ngờ tù trưởng và quản gia của tất cả các bộ lạc thảo nguyên Chia-cu Tây đều có mặt, kể cả tù trưởng Suô-lang-uang-tuôi của bộ lạc sông Dã-la và tù trưởng Ta-cơ-niê-y của bộ lạc Mục Mã Hạc đã nói ở trên.
Các vị tù trưởng và quản gia nhanh chóng tiến đến vè dừng lại tại 1 mảnh đất trống đặc biệt giành cho họ dưới đài hành hình. Có nghĩa là chủ nhân của buổi nghi thức, tù trưởng Ta-cơ-niê-y và những tù trưởng của các bộ lạc được mời tới dự đã đến đông đủ, buổi hành hình sắp bắt đầu. Đao phủ nọ lễ phép cúi chào cha tôi, có ý: “Hãy trả đao cho tôi.” Cha tôi cười gằn, bỗng nhảy ra sau túm lấy lông gáy Cang-rư-sân-cơ. Cang-rư-sân-cơ giật mình, nghiêng đầu thấp thỏm nhìn cha tôi. Cha tôi nói thật to: “Nghe đây! Hãy nghe đây, tất cả mọi người ở dưới nghe đây! Hôm nay các vị đã đến cả đây, đến đây làm gì? Đến xem chặt tay hay đến xem tôi và Cang-rư-sân-cơ? Hôm nay tôi tự nhiên không muốn sống nữa, Cang-rư-sân-cơ cũng không muốn sống nữa. Hôm nay chúng tôi liều chết 1 phen.”
Dưới đài hành hình náo động hẳn lên. Chó lại sủa. Đa số người không hiểu cha tôi nói gì, chỉ thấy bộ dạng cha tôi thật dễ sợ. 1 tay ông giơ cao đao đầu lâu sáng lóa, 1 tay túm con Cang-rư-sân-cơ không hề có chút phản kháng. Cha tôi gào thét, mặt mũi thật dễ sợ. Nhìn cha tôi hệt như 1 vị Kim Cương đại uy đại đức, trấn tà trừ ma. Cha tôi đợi tiếng chó sủa lắng đi, lại kêu to: “Cang-rư-sân-cơ là chó như thế nào? Tôi không nói chắc các vị cũng điều biết. Nó là sư tử núi Tuyết, là vị thần đến từ núi Tuyết A-ni-ma-chinh. Kiếp trước nó đã từng bảo vệ tất cả tăng lữ tu hành trên núi Tuyết. Nay nó đến để bảo vệ thảo nguyên Chia-cu Tây. Chắc các vị không để mặc nó chết chứ? Còn tôi, tôi là ai? Các vị không biết phải không? Phật sống Tan-Trân nói tôi là người Hán đem lại may mắn, người Hán cát tường, tất cả lạt ma phải đối xử với tôi như đối xử với chính mình, vì tôi đã đưa hóa thân của sư tử núi Tuyết đến thảo nguyên Chia-cu Tây. Tôi nói cho các vị biết, tôi là bạn của chó, là ân nhân của chó. Tôi đã cứ mạng Cang-rư-sân-cơ, cứu mạng Ngao đen Na-rư. Mọi người trên thảo nguyên đều nói tôi là Hán bồ tát đến từ phương xa, mang lại hạnh phúc cho thảo nguyên Chia-cu Tây. Nay tôi trịnh trọng tuyên bố, ai chặt tay 7 đứa trẻ, tôi sẽ chém chết con Cang-rư-sân-cơ rồi đến chùa Chia-cu Tây chém chết Ngao đen Na-rư, cuối cùng chém chết Hán bồ tát, chính là tôi đây!”
Cha tôi vừa gào, vừa kéo Cang-rư-sân-cơ ra, ấn cái đầu to tướng của nó xuống cái thớt gỗ. Cang-rư-sân-cơ nghe cha tôi gọi tên nó mấy lần, biết ngay dụng ý của cha tôi. Nó thuần phục không động đậy chút nào, chỉ chớp mắt hỏi cha tôi: “Chém tôi thật sao?”
Dưới đài hành hình, đàn chó sủa inh ỏi chạy ùa ra phía trước. Chúng thấy điệu bộ của cha tôi, tưởng ông chém Cang-rư-sân-cơ thật, chúng sủa để trợ uy. Duy chỉ có Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao không sủa tiếng nào. Nó nghiêng tai lắng nghe cha tôi nói, nghiên cứu nét mặt ông. Túy nó nghe không hiểu, cũng không rõ nhưng đã có 1 kết luận chính xác: “Người Hán này luôn che chở bảo vệ Ngao Tạng, không bao giờ lại giết Cang-rư-sân-cơ. Tất cả mọi người, kể cả người thảo nguyên Chia-cu Tây đều không thể giết con sư tử núi Tuyết ngoại lai này. Kẻ giết chết nó chỉ có thể là Ngao Tạng, nói đúng ra là chính nó, Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao của thảo nguyên Chia-cu Tây.” Ngao Vương theo đàn chó chạy về phía trước, gần đến đài hành hình nó dừng lại. Nó dùng tiếng sủa và ánh mắt ngăn đàn chó lộn xộn kia ngồi yên quan sát. Nó cũng quan sát tìm kiếm cơ hội. Không có. Không có cơ hội nào. Nó thấy thật sự đáng tiếc. Nó biết trong hoàn cảnh người đông chó nhiều vô kể thế này, khó có thể thực hiện kế hoạch giết Cang-rư-sân-cơ. Ngay cắn nó 1 miếng cũng chẳng có cơ hội nữa là. Nó chán chường lùi ra sau mấy bước, rồi bỗng nhiên nó không thấy hài lòng chút nào: “Cang-rư-sân-cơ là kẻ xâm phạm. Chủ của nó là kẻ thù Ama Thượng. Sao không thấy người của thảo nguyên Chia-cu Tây nhảy lên đài tỏ rõ thái độ, bày tỏ sự phẫn nộ chứ? Chẳng lẽ tất cả mọi người cũng như con Ngao đen Na-rư, cũng đã thích con Ngao sư đầu đẹp trai tuấn tú này rồi ư? Không! Điều đó không cho phép, trời xanh không cho phép, tổ tiên không cho phép, Ngao Tạng chúng tôi cũng cương quyết không cho phép. Cắn chết nó, cắn chết nó đi! Phải cắn chết thật nhanh.” Càng nghĩ Ngao Vương càng thấy chính mình phải cắn chết Cang-rư-sân-cơ mới được.
Trong đám người, quản gia Chi-Mây biết tiếng Hán. Ông dịch lại những lời cha tôi nói cho các tù trưởng nghe. Tù trưởng bộ lạc sông Dã-la Suô-lang-uang-tuôi nói: “Tôi cũng đã nghe phật sống Tan-Trân nói vậy. Phật sống Tan-Trân chắc không nhìn lầm người chứ?” Tù trưởng bộ lạc Mục Mã Hạc Ta-cơ-niê-y nói: “Tôi phục người Hán này không sợ chết, lại càng phục người Hán này cứu mạng Ngao Tạng. Nhưng người đó không nên bảo vệ 7 kẻ thù Ama Thượng. Bảo vệ chúng thì anh ta không phải Hán bồ tát của thảo nguyên Chia-cu Tây, là Hán bồ tát của thảo nguyên Ama Thượng rồi.”
Cha tôi vung đao đầu lâu tiếp tục kêu to: “Trong các vị ai là người có quyền? Hãy thả 7 đứa trẻ này ra. Nếu không tôi chém thật đấy.”
Hành động của cha tôi sau này người ta coi là hành động của kẻ liều mạng. Nhưng thật sự lúc ấy nó cũng có tác dụng trì hoãn rồi dẫn đến ngăn chặn việc chặt tay 7 đứa trẻ. Người trực tiếp tổ chức nghi lễ chặt tay là tướng cướp Chia-ma-chua của bộ lạc Mục Mã Hạc kéo quản gia Chi-Mây của bộ lạc sông Dã-la lên đài hành hình. Quản gia Chi-Mây kêu: “Hán bồ tát, Hán bồ tát, anh đừng làm vậy. Anh không hiểu nguyên nhân đâu. Người Ama Thượng nợ máu chúng tôi, nợ mạng chúng tôi.” Tướng cướp Chia-ma-chua cũng bập bẹ chút tiếng Hán, khua tay múa chân nói: “Nguyên nhân xa, xa lắm, nợ nhiều lắm, nhiều lắm.” Quản gia Chi-Mây nói: “Đúng vậy, họ nợ rất nhiều mạng người và cả mạng Ngao Tạng nữa. Dù có chém đầu 7 kẻ thù này cũng không trả hết nợ máu đâu.”
Cha tôi trả lời: “Ai nợ các anh đi đòi người ấy. Mạng của các anh không phải do 7 đứa trẻ con này nợ.”
Quản gia dịch lại lời cha tôi cho Chia-ma-chua nghe. Thủ lĩnh quân sự bộ lạc Mục Mã Hạc, tướng cướp Chia-ma-chua mặt đỏ như gấc, hầm hầm tức giận. Ông ta xì xì xồ xồ nói 1 tràng gì đó. Quản gia Chi-Mây nói: “Mạng của bộ lạc nào nợ, mọi người trong bộ lạc đều có phần phải trả. Mạng mà Ama Thượng nợ, tất cả người Ama Thượng đều phải trả. Đó là quy tắc của thảo nguyên.”
Cha tôi nói: “Đừng nói với tôi những điều này. Tôi không nghe đâu. Hán bồ tát ta có quy tắc của Hán bồ tát. Thả người ta, không tôi chém đấy.”
Tướng cướp Chia-ma-chua biết có nói nữa không không ăn thua. Ông ta quay sang mắng người đao phủ 1 hồi. Cha tôi nghe không hiểu lắm, đại khái là: “Đồ bỏ đi! Làm ăn thế à? Đao đầu lâu của mình cũng không giữ nổi. Bộ lạc nuôi đao phủ như mày thật uổng công, phí gạo. Sao không mau cướp lại đao đi!”
Đao phủ đeo mặt nạ đầu Ngao định cướp lại đao đầu lâu. Cha tôi giơ cao đao, gầm lên 1 tiếng: “Đừng lại gần, lại là tôi chém đấy. Chém chết Cang-rư-sân-cơ rồi chém chết cả tôi.” Gã đao phủ khựng lại rồi lại định xông tới cướp. Cha tôi nói: “Ối chà, nó cũng liều mạng như ta à?” Vừa dứt lời cha tôi vung đao chém xuống.
Rồi cha tôi như chẳng có chuyện gì, đến gần 1 đao phủ đeo mặt nạ đầu Ngao, giơ ngón tay cái lên cười nói: “Đao của anh mới đẹp làm sao! Tôi chưa từng thấy đao nào trang trí đẹp thế này.” Gã đao phủ thấy cha tôi mặc trang phục người Hán, biết cha tôi là người của Ủy ban công tác Chia-cu Tây bèn cười cười với ông sau mặt nạ. Cha tôi cảm thấy người đao phủ có vẻ hữu hảo với mình, không cần biết anh ta có nghe hiểu mình nói gì hay không, ông chìa tay ra nói: “Có thể cho tôi xem đao của anh được không?” Người đao phủ không hiểu cha tôi muốn gì, lúng túng lắc đầu. Cha tôi thò tay vào lòng anh ta, cầm lấy chuôi đao. Người đao phủ hơi do dự một chút, nhưng rồi cũng buông tay ra. Cha tôi cầm đao, dưới ánh nắng chói lọi, ngắm nghía cán rồi mũi dao.
Vừa lúc đó dưới đài hành hình có tiếng huyên náo, đàn chó sủa vang. Cha tôi ngẩng đầu lên thấy 7 pháp sư đội mũ đỏ giơ kích lên cao, 7 người đội mũ đen cũng giơ trống hình đầu người lên cao, 7 phù thủy đội mũ vàng giơ gậy thiết ma gắn các vòng loảng xoảng lên. Những pháp sư của các bộ lạc khi giơ cao pháp khí đều quay đầu hướng về 1 lối do dòng người tự giãn ra. 1 đoàn người ăn mặc sang trọng từ lối đó tiến về phía đài hành hình. Những người mục đồng đứng 2 bên lặng lẽ cúi xuống kính cẩn chào. Thậm chí đàn chó cũng im không sủa nữa, ngay cả tiếng sủa vui mừng cũng không có. Cha tôi thấy trong đoàn người có quản gia Chi-Mây mà cha tôi vừa gặp buổi sáng mới đoán đây là những người có địa vị thế nào. Nhưng cha tôi không ngờ tù trưởng và quản gia của tất cả các bộ lạc thảo nguyên Chia-cu Tây đều có mặt, kể cả tù trưởng Suô-lang-uang-tuôi của bộ lạc sông Dã-la và tù trưởng Ta-cơ-niê-y của bộ lạc Mục Mã Hạc đã nói ở trên.
Các vị tù trưởng và quản gia nhanh chóng tiến đến vè dừng lại tại 1 mảnh đất trống đặc biệt giành cho họ dưới đài hành hình. Có nghĩa là chủ nhân của buổi nghi thức, tù trưởng Ta-cơ-niê-y và những tù trưởng của các bộ lạc được mời tới dự đã đến đông đủ, buổi hành hình sắp bắt đầu. Đao phủ nọ lễ phép cúi chào cha tôi, có ý: “Hãy trả đao cho tôi.” Cha tôi cười gằn, bỗng nhảy ra sau túm lấy lông gáy Cang-rư-sân-cơ. Cang-rư-sân-cơ giật mình, nghiêng đầu thấp thỏm nhìn cha tôi. Cha tôi nói thật to: “Nghe đây! Hãy nghe đây, tất cả mọi người ở dưới nghe đây! Hôm nay các vị đã đến cả đây, đến đây làm gì? Đến xem chặt tay hay đến xem tôi và Cang-rư-sân-cơ? Hôm nay tôi tự nhiên không muốn sống nữa, Cang-rư-sân-cơ cũng không muốn sống nữa. Hôm nay chúng tôi liều chết 1 phen.”
Dưới đài hành hình náo động hẳn lên. Chó lại sủa. Đa số người không hiểu cha tôi nói gì, chỉ thấy bộ dạng cha tôi thật dễ sợ. 1 tay ông giơ cao đao đầu lâu sáng lóa, 1 tay túm con Cang-rư-sân-cơ không hề có chút phản kháng. Cha tôi gào thét, mặt mũi thật dễ sợ. Nhìn cha tôi hệt như 1 vị Kim Cương đại uy đại đức, trấn tà trừ ma. Cha tôi đợi tiếng chó sủa lắng đi, lại kêu to: “Cang-rư-sân-cơ là chó như thế nào? Tôi không nói chắc các vị cũng điều biết. Nó là sư tử núi Tuyết, là vị thần đến từ núi Tuyết A-ni-ma-chinh. Kiếp trước nó đã từng bảo vệ tất cả tăng lữ tu hành trên núi Tuyết. Nay nó đến để bảo vệ thảo nguyên Chia-cu Tây. Chắc các vị không để mặc nó chết chứ? Còn tôi, tôi là ai? Các vị không biết phải không? Phật sống Tan-Trân nói tôi là người Hán đem lại may mắn, người Hán cát tường, tất cả lạt ma phải đối xử với tôi như đối xử với chính mình, vì tôi đã đưa hóa thân của sư tử núi Tuyết đến thảo nguyên Chia-cu Tây. Tôi nói cho các vị biết, tôi là bạn của chó, là ân nhân của chó. Tôi đã cứ mạng Cang-rư-sân-cơ, cứu mạng Ngao đen Na-rư. Mọi người trên thảo nguyên đều nói tôi là Hán bồ tát đến từ phương xa, mang lại hạnh phúc cho thảo nguyên Chia-cu Tây. Nay tôi trịnh trọng tuyên bố, ai chặt tay 7 đứa trẻ, tôi sẽ chém chết con Cang-rư-sân-cơ rồi đến chùa Chia-cu Tây chém chết Ngao đen Na-rư, cuối cùng chém chết Hán bồ tát, chính là tôi đây!”
Cha tôi vừa gào, vừa kéo Cang-rư-sân-cơ ra, ấn cái đầu to tướng của nó xuống cái thớt gỗ. Cang-rư-sân-cơ nghe cha tôi gọi tên nó mấy lần, biết ngay dụng ý của cha tôi. Nó thuần phục không động đậy chút nào, chỉ chớp mắt hỏi cha tôi: “Chém tôi thật sao?”
Dưới đài hành hình, đàn chó sủa inh ỏi chạy ùa ra phía trước. Chúng thấy điệu bộ của cha tôi, tưởng ông chém Cang-rư-sân-cơ thật, chúng sủa để trợ uy. Duy chỉ có Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao không sủa tiếng nào. Nó nghiêng tai lắng nghe cha tôi nói, nghiên cứu nét mặt ông. Túy nó nghe không hiểu, cũng không rõ nhưng đã có 1 kết luận chính xác: “Người Hán này luôn che chở bảo vệ Ngao Tạng, không bao giờ lại giết Cang-rư-sân-cơ. Tất cả mọi người, kể cả người thảo nguyên Chia-cu Tây đều không thể giết con sư tử núi Tuyết ngoại lai này. Kẻ giết chết nó chỉ có thể là Ngao Tạng, nói đúng ra là chính nó, Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao của thảo nguyên Chia-cu Tây.” Ngao Vương theo đàn chó chạy về phía trước, gần đến đài hành hình nó dừng lại. Nó dùng tiếng sủa và ánh mắt ngăn đàn chó lộn xộn kia ngồi yên quan sát. Nó cũng quan sát tìm kiếm cơ hội. Không có. Không có cơ hội nào. Nó thấy thật sự đáng tiếc. Nó biết trong hoàn cảnh người đông chó nhiều vô kể thế này, khó có thể thực hiện kế hoạch giết Cang-rư-sân-cơ. Ngay cắn nó 1 miếng cũng chẳng có cơ hội nữa là. Nó chán chường lùi ra sau mấy bước, rồi bỗng nhiên nó không thấy hài lòng chút nào: “Cang-rư-sân-cơ là kẻ xâm phạm. Chủ của nó là kẻ thù Ama Thượng. Sao không thấy người của thảo nguyên Chia-cu Tây nhảy lên đài tỏ rõ thái độ, bày tỏ sự phẫn nộ chứ? Chẳng lẽ tất cả mọi người cũng như con Ngao đen Na-rư, cũng đã thích con Ngao sư đầu đẹp trai tuấn tú này rồi ư? Không! Điều đó không cho phép, trời xanh không cho phép, tổ tiên không cho phép, Ngao Tạng chúng tôi cũng cương quyết không cho phép. Cắn chết nó, cắn chết nó đi! Phải cắn chết thật nhanh.” Càng nghĩ Ngao Vương càng thấy chính mình phải cắn chết Cang-rư-sân-cơ mới được.
Trong đám người, quản gia Chi-Mây biết tiếng Hán. Ông dịch lại những lời cha tôi nói cho các tù trưởng nghe. Tù trưởng bộ lạc sông Dã-la Suô-lang-uang-tuôi nói: “Tôi cũng đã nghe phật sống Tan-Trân nói vậy. Phật sống Tan-Trân chắc không nhìn lầm người chứ?” Tù trưởng bộ lạc Mục Mã Hạc Ta-cơ-niê-y nói: “Tôi phục người Hán này không sợ chết, lại càng phục người Hán này cứu mạng Ngao Tạng. Nhưng người đó không nên bảo vệ 7 kẻ thù Ama Thượng. Bảo vệ chúng thì anh ta không phải Hán bồ tát của thảo nguyên Chia-cu Tây, là Hán bồ tát của thảo nguyên Ama Thượng rồi.”
Cha tôi vung đao đầu lâu tiếp tục kêu to: “Trong các vị ai là người có quyền? Hãy thả 7 đứa trẻ này ra. Nếu không tôi chém thật đấy.”
Hành động của cha tôi sau này người ta coi là hành động của kẻ liều mạng. Nhưng thật sự lúc ấy nó cũng có tác dụng trì hoãn rồi dẫn đến ngăn chặn việc chặt tay 7 đứa trẻ. Người trực tiếp tổ chức nghi lễ chặt tay là tướng cướp Chia-ma-chua của bộ lạc Mục Mã Hạc kéo quản gia Chi-Mây của bộ lạc sông Dã-la lên đài hành hình. Quản gia Chi-Mây kêu: “Hán bồ tát, Hán bồ tát, anh đừng làm vậy. Anh không hiểu nguyên nhân đâu. Người Ama Thượng nợ máu chúng tôi, nợ mạng chúng tôi.” Tướng cướp Chia-ma-chua cũng bập bẹ chút tiếng Hán, khua tay múa chân nói: “Nguyên nhân xa, xa lắm, nợ nhiều lắm, nhiều lắm.” Quản gia Chi-Mây nói: “Đúng vậy, họ nợ rất nhiều mạng người và cả mạng Ngao Tạng nữa. Dù có chém đầu 7 kẻ thù này cũng không trả hết nợ máu đâu.”
Cha tôi trả lời: “Ai nợ các anh đi đòi người ấy. Mạng của các anh không phải do 7 đứa trẻ con này nợ.”
Quản gia dịch lại lời cha tôi cho Chia-ma-chua nghe. Thủ lĩnh quân sự bộ lạc Mục Mã Hạc, tướng cướp Chia-ma-chua mặt đỏ như gấc, hầm hầm tức giận. Ông ta xì xì xồ xồ nói 1 tràng gì đó. Quản gia Chi-Mây nói: “Mạng của bộ lạc nào nợ, mọi người trong bộ lạc đều có phần phải trả. Mạng mà Ama Thượng nợ, tất cả người Ama Thượng đều phải trả. Đó là quy tắc của thảo nguyên.”
Cha tôi nói: “Đừng nói với tôi những điều này. Tôi không nghe đâu. Hán bồ tát ta có quy tắc của Hán bồ tát. Thả người ta, không tôi chém đấy.”
Tướng cướp Chia-ma-chua biết có nói nữa không không ăn thua. Ông ta quay sang mắng người đao phủ 1 hồi. Cha tôi nghe không hiểu lắm, đại khái là: “Đồ bỏ đi! Làm ăn thế à? Đao đầu lâu của mình cũng không giữ nổi. Bộ lạc nuôi đao phủ như mày thật uổng công, phí gạo. Sao không mau cướp lại đao đi!”
Đao phủ đeo mặt nạ đầu Ngao định cướp lại đao đầu lâu. Cha tôi giơ cao đao, gầm lên 1 tiếng: “Đừng lại gần, lại là tôi chém đấy. Chém chết Cang-rư-sân-cơ rồi chém chết cả tôi.” Gã đao phủ khựng lại rồi lại định xông tới cướp. Cha tôi nói: “Ối chà, nó cũng liều mạng như ta à?” Vừa dứt lời cha tôi vung đao chém xuống.