• Chào mừng bạn Khách đến với diễn đàn, chúc bạn vui vẻ sinh hoạt cùng cộng đồng Vietpet.
    Diễn đàn đã có sẵn cơ sở dữ liệu tương đối lớn về các vấn đề thường gặp như thú y, huấn luyện, chăm sóc thú cưng..., bạn Khách vui lòng tìm đọc kỹ trước khi gửi câu hỏi.
    Lưu ý: Diễn đàn không chấp nhận ngôn ngữ chat, bài viết không có nội dung ( bài spam).

Chó Ngao Tây Tạng (tiểu thuyết)

ohcuey

Member
Cha tôi theo chân Cang-rư-sân-cơ đi về phía 7 đứa trẻ Ama Thượng, cười hỏi: “Các cháu gọi nó là Cang-rư-sân-cơ, chú cũng gọi nó là Cang-rư-sân-cơ, vậy Cang-rư-sân-cơ nghĩa là gì?” Thằng bé đầu to dùng cằm cố hất tay người đàn ông cao to đang nắm vai nó, ngoảnh đầu nhìn thằng bé mặt sẹo nói: “Sư tử núi Tuyết”. Cha tôi hỏi lại: “Cang-rư-sân-cơ là sư tử núi Tuyết ư? Sao các cháu biết?” Thằng bé đầu to ngớ ra, không hiểu sao cha tôi lại hỏi như vậy. Cha tôi nói to: “Chú bảo cho các cháu biết, phật sống Tan-Trân chủ trì chùa Chia-cu Tây nói Cang-rư-sân-cơ là sư tử núi Tuyết trên núi A-ni-ma-chinh đầu thai. Kiếp trước nó đã bảo vệ các vị tăng tu hành trên núi tuyết. Nó là con chó thần. Không ai được phép ức hiếp nó. Các cháu nói lại lời chú bằng tiếng Tạng, nói thật to, để mọi người cùng nghe.” Mặt sẹo hỏi đầu to: “Chú ấy nói gì đấy?” Đầu to thuật lại với nó. Thằng bé mặt sẹo thông minh không kém Cang-rư-sân-cơ, hiểu ngay ý cha tôi. Nó gần như gào lên thuật lại những gì cha tôi nói.

Rồi cha tôi như chẳng có chuyện gì, đến gần 1 đao phủ đeo mặt nạ đầu Ngao, giơ ngón tay cái lên cười nói: “Đao của anh mới đẹp làm sao! Tôi chưa từng thấy đao nào trang trí đẹp thế này.” Gã đao phủ thấy cha tôi mặc trang phục người Hán, biết cha tôi là người của Ủy ban công tác Chia-cu Tây bèn cười cười với ông sau mặt nạ. Cha tôi cảm thấy người đao phủ có vẻ hữu hảo với mình, không cần biết anh ta có nghe hiểu mình nói gì hay không, ông chìa tay ra nói: “Có thể cho tôi xem đao của anh được không?” Người đao phủ không hiểu cha tôi muốn gì, lúng túng lắc đầu. Cha tôi thò tay vào lòng anh ta, cầm lấy chuôi đao. Người đao phủ hơi do dự một chút, nhưng rồi cũng buông tay ra. Cha tôi cầm đao, dưới ánh nắng chói lọi, ngắm nghía cán rồi mũi dao.

Vừa lúc đó dưới đài hành hình có tiếng huyên náo, đàn chó sủa vang. Cha tôi ngẩng đầu lên thấy 7 pháp sư đội mũ đỏ giơ kích lên cao, 7 người đội mũ đen cũng giơ trống hình đầu người lên cao, 7 phù thủy đội mũ vàng giơ gậy thiết ma gắn các vòng loảng xoảng lên. Những pháp sư của các bộ lạc khi giơ cao pháp khí đều quay đầu hướng về 1 lối do dòng người tự giãn ra. 1 đoàn người ăn mặc sang trọng từ lối đó tiến về phía đài hành hình. Những người mục đồng đứng 2 bên lặng lẽ cúi xuống kính cẩn chào. Thậm chí đàn chó cũng im không sủa nữa, ngay cả tiếng sủa vui mừng cũng không có. Cha tôi thấy trong đoàn người có quản gia Chi-Mây mà cha tôi vừa gặp buổi sáng mới đoán đây là những người có địa vị thế nào. Nhưng cha tôi không ngờ tù trưởng và quản gia của tất cả các bộ lạc thảo nguyên Chia-cu Tây đều có mặt, kể cả tù trưởng Suô-lang-uang-tuôi của bộ lạc sông Dã-la và tù trưởng Ta-cơ-niê-y của bộ lạc Mục Mã Hạc đã nói ở trên.

Các vị tù trưởng và quản gia nhanh chóng tiến đến vè dừng lại tại 1 mảnh đất trống đặc biệt giành cho họ dưới đài hành hình. Có nghĩa là chủ nhân của buổi nghi thức, tù trưởng Ta-cơ-niê-y và những tù trưởng của các bộ lạc được mời tới dự đã đến đông đủ, buổi hành hình sắp bắt đầu. Đao phủ nọ lễ phép cúi chào cha tôi, có ý: “Hãy trả đao cho tôi.” Cha tôi cười gằn, bỗng nhảy ra sau túm lấy lông gáy Cang-rư-sân-cơ. Cang-rư-sân-cơ giật mình, nghiêng đầu thấp thỏm nhìn cha tôi. Cha tôi nói thật to: “Nghe đây! Hãy nghe đây, tất cả mọi người ở dưới nghe đây! Hôm nay các vị đã đến cả đây, đến đây làm gì? Đến xem chặt tay hay đến xem tôi và Cang-rư-sân-cơ? Hôm nay tôi tự nhiên không muốn sống nữa, Cang-rư-sân-cơ cũng không muốn sống nữa. Hôm nay chúng tôi liều chết 1 phen.”

Dưới đài hành hình náo động hẳn lên. Chó lại sủa. Đa số người không hiểu cha tôi nói gì, chỉ thấy bộ dạng cha tôi thật dễ sợ. 1 tay ông giơ cao đao đầu lâu sáng lóa, 1 tay túm con Cang-rư-sân-cơ không hề có chút phản kháng. Cha tôi gào thét, mặt mũi thật dễ sợ. Nhìn cha tôi hệt như 1 vị Kim Cương đại uy đại đức, trấn tà trừ ma. Cha tôi đợi tiếng chó sủa lắng đi, lại kêu to: “Cang-rư-sân-cơ là chó như thế nào? Tôi không nói chắc các vị cũng điều biết. Nó là sư tử núi Tuyết, là vị thần đến từ núi Tuyết A-ni-ma-chinh. Kiếp trước nó đã từng bảo vệ tất cả tăng lữ tu hành trên núi Tuyết. Nay nó đến để bảo vệ thảo nguyên Chia-cu Tây. Chắc các vị không để mặc nó chết chứ? Còn tôi, tôi là ai? Các vị không biết phải không? Phật sống Tan-Trân nói tôi là người Hán đem lại may mắn, người Hán cát tường, tất cả lạt ma phải đối xử với tôi như đối xử với chính mình, vì tôi đã đưa hóa thân của sư tử núi Tuyết đến thảo nguyên Chia-cu Tây. Tôi nói cho các vị biết, tôi là bạn của chó, là ân nhân của chó. Tôi đã cứ mạng Cang-rư-sân-cơ, cứu mạng Ngao đen Na-rư. Mọi người trên thảo nguyên đều nói tôi là Hán bồ tát đến từ phương xa, mang lại hạnh phúc cho thảo nguyên Chia-cu Tây. Nay tôi trịnh trọng tuyên bố, ai chặt tay 7 đứa trẻ, tôi sẽ chém chết con Cang-rư-sân-cơ rồi đến chùa Chia-cu Tây chém chết Ngao đen Na-rư, cuối cùng chém chết Hán bồ tát, chính là tôi đây!”

Cha tôi vừa gào, vừa kéo Cang-rư-sân-cơ ra, ấn cái đầu to tướng của nó xuống cái thớt gỗ. Cang-rư-sân-cơ nghe cha tôi gọi tên nó mấy lần, biết ngay dụng ý của cha tôi. Nó thuần phục không động đậy chút nào, chỉ chớp mắt hỏi cha tôi: “Chém tôi thật sao?”

Dưới đài hành hình, đàn chó sủa inh ỏi chạy ùa ra phía trước. Chúng thấy điệu bộ của cha tôi, tưởng ông chém Cang-rư-sân-cơ thật, chúng sủa để trợ uy. Duy chỉ có Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao không sủa tiếng nào. Nó nghiêng tai lắng nghe cha tôi nói, nghiên cứu nét mặt ông. Túy nó nghe không hiểu, cũng không rõ nhưng đã có 1 kết luận chính xác: “Người Hán này luôn che chở bảo vệ Ngao Tạng, không bao giờ lại giết Cang-rư-sân-cơ. Tất cả mọi người, kể cả người thảo nguyên Chia-cu Tây đều không thể giết con sư tử núi Tuyết ngoại lai này. Kẻ giết chết nó chỉ có thể là Ngao Tạng, nói đúng ra là chính nó, Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao của thảo nguyên Chia-cu Tây.” Ngao Vương theo đàn chó chạy về phía trước, gần đến đài hành hình nó dừng lại. Nó dùng tiếng sủa và ánh mắt ngăn đàn chó lộn xộn kia ngồi yên quan sát. Nó cũng quan sát tìm kiếm cơ hội. Không có. Không có cơ hội nào. Nó thấy thật sự đáng tiếc. Nó biết trong hoàn cảnh người đông chó nhiều vô kể thế này, khó có thể thực hiện kế hoạch giết Cang-rư-sân-cơ. Ngay cắn nó 1 miếng cũng chẳng có cơ hội nữa là. Nó chán chường lùi ra sau mấy bước, rồi bỗng nhiên nó không thấy hài lòng chút nào: “Cang-rư-sân-cơ là kẻ xâm phạm. Chủ của nó là kẻ thù Ama Thượng. Sao không thấy người của thảo nguyên Chia-cu Tây nhảy lên đài tỏ rõ thái độ, bày tỏ sự phẫn nộ chứ? Chẳng lẽ tất cả mọi người cũng như con Ngao đen Na-rư, cũng đã thích con Ngao sư đầu đẹp trai tuấn tú này rồi ư? Không! Điều đó không cho phép, trời xanh không cho phép, tổ tiên không cho phép, Ngao Tạng chúng tôi cũng cương quyết không cho phép. Cắn chết nó, cắn chết nó đi! Phải cắn chết thật nhanh.” Càng nghĩ Ngao Vương càng thấy chính mình phải cắn chết Cang-rư-sân-cơ mới được.

Trong đám người, quản gia Chi-Mây biết tiếng Hán. Ông dịch lại những lời cha tôi nói cho các tù trưởng nghe. Tù trưởng bộ lạc sông Dã-la Suô-lang-uang-tuôi nói: “Tôi cũng đã nghe phật sống Tan-Trân nói vậy. Phật sống Tan-Trân chắc không nhìn lầm người chứ?” Tù trưởng bộ lạc Mục Mã Hạc Ta-cơ-niê-y nói: “Tôi phục người Hán này không sợ chết, lại càng phục người Hán này cứu mạng Ngao Tạng. Nhưng người đó không nên bảo vệ 7 kẻ thù Ama Thượng. Bảo vệ chúng thì anh ta không phải Hán bồ tát của thảo nguyên Chia-cu Tây, là Hán bồ tát của thảo nguyên Ama Thượng rồi.”

Cha tôi vung đao đầu lâu tiếp tục kêu to: “Trong các vị ai là người có quyền? Hãy thả 7 đứa trẻ này ra. Nếu không tôi chém thật đấy.”

Hành động của cha tôi sau này người ta coi là hành động của kẻ liều mạng. Nhưng thật sự lúc ấy nó cũng có tác dụng trì hoãn rồi dẫn đến ngăn chặn việc chặt tay 7 đứa trẻ. Người trực tiếp tổ chức nghi lễ chặt tay là tướng cướp Chia-ma-chua của bộ lạc Mục Mã Hạc kéo quản gia Chi-Mây của bộ lạc sông Dã-la lên đài hành hình. Quản gia Chi-Mây kêu: “Hán bồ tát, Hán bồ tát, anh đừng làm vậy. Anh không hiểu nguyên nhân đâu. Người Ama Thượng nợ máu chúng tôi, nợ mạng chúng tôi.” Tướng cướp Chia-ma-chua cũng bập bẹ chút tiếng Hán, khua tay múa chân nói: “Nguyên nhân xa, xa lắm, nợ nhiều lắm, nhiều lắm.” Quản gia Chi-Mây nói: “Đúng vậy, họ nợ rất nhiều mạng người và cả mạng Ngao Tạng nữa. Dù có chém đầu 7 kẻ thù này cũng không trả hết nợ máu đâu.”

Cha tôi trả lời: “Ai nợ các anh đi đòi người ấy. Mạng của các anh không phải do 7 đứa trẻ con này nợ.”

Quản gia dịch lại lời cha tôi cho Chia-ma-chua nghe. Thủ lĩnh quân sự bộ lạc Mục Mã Hạc, tướng cướp Chia-ma-chua mặt đỏ như gấc, hầm hầm tức giận. Ông ta xì xì xồ xồ nói 1 tràng gì đó. Quản gia Chi-Mây nói: “Mạng của bộ lạc nào nợ, mọi người trong bộ lạc đều có phần phải trả. Mạng mà Ama Thượng nợ, tất cả người Ama Thượng đều phải trả. Đó là quy tắc của thảo nguyên.”

Cha tôi nói: “Đừng nói với tôi những điều này. Tôi không nghe đâu. Hán bồ tát ta có quy tắc của Hán bồ tát. Thả người ta, không tôi chém đấy.”

Tướng cướp Chia-ma-chua biết có nói nữa không không ăn thua. Ông ta quay sang mắng người đao phủ 1 hồi. Cha tôi nghe không hiểu lắm, đại khái là: “Đồ bỏ đi! Làm ăn thế à? Đao đầu lâu của mình cũng không giữ nổi. Bộ lạc nuôi đao phủ như mày thật uổng công, phí gạo. Sao không mau cướp lại đao đi!”

Đao phủ đeo mặt nạ đầu Ngao định cướp lại đao đầu lâu. Cha tôi giơ cao đao, gầm lên 1 tiếng: “Đừng lại gần, lại là tôi chém đấy. Chém chết Cang-rư-sân-cơ rồi chém chết cả tôi.” Gã đao phủ khựng lại rồi lại định xông tới cướp. Cha tôi nói: “Ối chà, nó cũng liều mạng như ta à?” Vừa dứt lời cha tôi vung đao chém xuống.
 

ohcuey

Member
Mọi người kêu rú lên. Trong mắt mọi người, nhát đao ấy chém vào đầu Cang-rư-sân-cơ. Nhưng chỉ có cha tôi và Cang-rư-sân-cơ biết rõ nhát đao ấy chém xuống bàn tay đang ấn đầu Cang-rư-sân-cơ của cha tôi. Bất giác con Cang-rư-sân-cơ run lên. Nó cảm thấy rất đau. Nó là 1 con Ngao Tạng xuất sắc, trái tim nó gắn liền với trái tim loài người. Nó cảm thấy ngay sự đau đớn đang lan tỏa toàn thân. Dường như người của cha tôi chính là người nó, thần kinh của cha tôi là thần kinh của nó. Khi vết thương ở tay cha tôi đau đớn, cũng là lúc nó đang chịu nỗi đau đó. Cang-rư-sân-cơ kêu rên u…u… Đấy là tiếng khóc, tiếng khóc từ đáy lòng mà nó học được của con người.

Gã đao phủ thấy vậy sợ quá, nhìn sang tướng cướp Chia-ma-chua rồi lùi lại. Tướng cướp đưa tay hẩy gã đao phủ vẻ coi thường rồi định đích thân xông vào cướp đao. Quản gia Chi-Mây vội kéo lại: “Anh đừng dồn người Hán này vào chân tường. Làm quá mất mạng người, mạng Ngao thì ai chịu?”

Máu chảy rồi! Cha tôi vung tay đang chảy máu nói: “Hãy nhìn đi, nhìn đi! Đây là máu của Hán bồ tát, máu chảy trên thảo nguyên Chia-cu Tây rồi.” Máu bắn tứ tung không biết bắn đi đâu, nhưng biết chắc có 1 giọt bắn lên mặt 1 cô gái. Cô gái này lấy tay lau, thấy trên tay xuất hiện 1 vệt máu như sao chổi. Cô xúc động chạy như bay lên đài hành hình kêu to: “Còn tôi nữa, ai đòi chặt tay 7 đứa trẻ thì chặt tay tôi trước.” Cha tôi nhìn, hóa ra là Mây-tô-la-mu. “Cô đến đây làm gì? Ở đây ai để tâm đến cô?” Sau đó cha tôi lại nói: “Thôi cũng được, để tay lên thớt đi. Tôi sắp chém đây.” Mây-tô-la-mu hít 1 hơi dài, để tay lên thớt. Cha tôi lại nói: “Tôi chém đây!” Cô cắn răng nói: “Anh cứ chém đi.” Nói xong cô nhắm chặt mắt lại.

Cha tôi giơ cao đao đầu lâu hệt như 1 kẻ say máu giết người. Đao không chém xuống vì cha tôi ý thức được vẻ xinh đẹp của Mây-tô-la-mu, bàn tay trắng nõn của cô. Nếu có phải chém thì ông sẽ chém nát tay, thậm chí đầu của mình chứ không chém Mây-tô-la-mu. Cha tôi phẫn uất hỏi Mây-tô-la-mu: “Sao không thấy Bạch chủ nhiệm đến? Phải chăng ông ta không hay biết? Hay ông ta biết những cố tình lánh mặt?”

Lúc này người mà cha tôi mong gặp nhất là Bạch chủ nhiệm của ủy ban công tác Chia-cu Tây và phật sống Tan-Trân. Ông linh cảm 1 trong 2 người đều có khả năng ngăn chăn nghi thức chặt tay tàn khốc này. Nhưng đến giờ phút này vẫn chưa thấy 2 người xuất hiện. Sao 2 người này phiêu diêu tận đâu không biết! Cha tôi vô cùng nản chí. Ông thấy hôm nay thật đen đủi, chắc mình sẽ chết tại đây thôi. Ông không hề lo khi vung đao đầu lâu chém vào cổ mình liệu có run sợ không, ông chỉ lo dù mình có chết thì bàn tay của 7 đứa trẻ Ama Thượng liệu có giữ được không. Cha tôi đứng ngây ra. Lúc này trông ông hệt như người bị hành hình. Ông đã lâm vào cảnh cưỡi hổ, tiến thoái lưỡng nan. Ngoài việc nghĩ ra mình sẽ tự sát, ông không còn nghĩ được gì nữa.

Đám đông người và chó đứng xem náo động không yên, nhưng nghi thức vẫn tiếp tục. Sau khoảng khắc im lặng, 7 pháp sư cầm kích mâu trừ nghịch, đầu đội mũ đỏ lại to tiếng tụng niệm. 7 thần Hán cầm trống hình đầu người, đầu đội mũ đen lại chầm chậm nặng nề gõ trống. 7 phù thủy tay cầm gậy ma thiếc, đầu đội mũ vàng lại bắt đầu vừa múa vừa hát. Họ đi vòng quanh đài hành hình. Những việc vừa xảy ra trên đào dường như chẳng dính dáng gì tới họ.

“Sao họ lại hững hờ vô cảm như vậy nhỉ? Ta sẽ chết trong sự hờ hững vô cảm của họ sao?” Nghĩ vậy, cha tôi vứt đao đầu lâu xuống, bỗng nước mắt giàn giụa tuôn trào. Sau này cha tôi kể lại: “Sao ta lại có thể chảy nước mắt lúc này? Sao ta không phải 1 Ngao Tạng kiên cường dũng mãnh? Sao ta lại mềm yếu như vậy? Mềm yếu đến mức đáng hổ thẹn, mềm yếu đến không phải là 1 đấng nam nhi nữa. Nếu ta là 1 pháp sư của phát Mật Tông hoặc 1 phù thủy của phái Bản Giáo thì ta sẽ không bao giờ biết thế nào là mềm yếu, ta sẽ đọc những câu thần chú làm những con Ngao Tạng không phân biệt được địch ta, sau đó điều động chúng đến cứu 7 đứa trẻ Ama Thượng. Đáng tiếc ta không phải phù thủy, không có bản lĩnh phá tan ma chướng, không có pháp lực đọc những câu thần chú mạnh mẽ sai khiến người khác. Ta thật sự chẳng còn cách nào nữa.”

Thấy cha tôi khóc, 7 đứa trẻ Ama Thượng biết tay mình bị chặt là điều không tránh khỏi, cùng nhau khóc hu hu. Mây-tô-la-mu cũng khóc hu hu. Còn Cang-rư-sân-cơ nước mắt cũng lặng lẽ chảy trên thớt làm ướt cả 1 mảng.

Trong đàn chó đứng không xa lắm, Ngao Vương phấn chấn hẳn lên. Cơ hội? Có lẽ đây là 1 cơ hội: trong lúc Cang-rư-sân-cơ và những người bên cạnh nó đang chìm trong đau thương không kịp phản ứng, nó sẽ chạy nhanh như tên bắn lên đài hành hình cắn chết đối thủ. Chỉ cần cắn 1 miếng, không cần cắn nhiều. Cắn 1 miếng mà nó không chết thì ta không phải là Ngao Vương nữa. Ngao Vương bất giác gầm khe khẽ, đi đi lại lại như thị uy, để lông Ngao trắng như tuyết của nó bay trong gió, 4 vó của nó nảy lên, chạy như tên bắn.

Cả thân hình Cang-rư-sân-cơ run lên 1 cái, mũi đánh hơi, tai vểnh lên, ngẩng đầu nhìn về phương xa. Nó không khóc nữa, liếm đi nước mắt trên thớt, sau đó đi đến mép đài hành hình, nhìn xuống dưới sủa khàn khàn. Nó đe dọa tù trưởng và quản gia nắm quyền sinh sát, hay nó đe dọa bọn chó Tạng đang xúm đông xúm đỏ xem hành hình và con Ngao Tạng trắng như tuyết đang chạy lại kia? Không, cha tôi lau nước mắt và phát hiện ra Cang-rư-sân-cơ không phải đe dọa mà là chào đón và trông chờ. Nó chào đón 1 người quen đã đến. Người đó là lạt ma gậy sát Tạng Cha-xi của chùa Chia-cu Tây.

Tạng Cha-xi dẫn mười mấy vị lạt ma gậy sát và 1 đàn chó nhà chùa chạy từ núi vọng gác tới. Tiếng chó nhà chùa sủa inh ỏi đã thu hút sự chú ý của mọi người và chó.

Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao dừng lại ngay. Nó biết lạt ma gậy sát là người thực thi luật pháp của thảo nguyên và thực hiện ý chí nhà chùa. Trong khắp thảo nguyên miền tây Chinh-cô-ama, chỉ có lạt ma gậy sắt mới được tùy ý trừng phạt tất cả sinh linh, trong đó có cả Ngao Tạng, đương nhiên cũng có cả Ngao Vương. Vì vậy nó biết dừng lại tuy chỉ cách đài hành hình có hai ba bước, cách Cang-rư-sân-cơ có bảy tám bước. Nghĩa là chỉ chậm có mấy giây, Cang-rư-sân-cơ vẫn sống. Nó sống trong đau khổ. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao cũng sống trong đau khổ vì thấy Cang-rư-sân-cơ còn sống.
 

ohcuey

Member
Sự thực 2 nhân vật lớn mà cha tôi nóng lòng mong đợi: phật sống Tan-Trân và Bạch chủ nhiệm Bạch-mã-u-chinh, trong khi cha tôi xông lên đài hành hình đòi sống đòi chết thì 2 vị ấy cũng đứng ngồi không yên. Thông qua kênh thong tin riêng của mỗi người, họ đã biết trên thảo nguyên đang xảy ra chuyện gì rồi.2 vị “đầu não” đang khẩn trương thương lượng tại thần điện hộ pháp trong chùa Chia-cu Tây.

Bạch chủ nhiệm nói: “Những phiền toái trên thảo nguyên là do Hán Cha-xi của chúng tôi gây ra, giờ chỉ có phật sống ngài đứng ra mới giải quyết được.” Phật sống Tan-Trân nói: “Thực ra trong lúc này các anh không nên trốn tránh. Phải đón nhận lấy cạm bẫy của ma quỷ, anh dũng tiến lên phá sập.” Bạch chủ nhiệm trả lời: “Chúng tôi đứng ra e không ổn. Chúng tôi xuất đầu lộ diện các tù trưởng và dân du mục sẽ hiểu lầm, cho rằng chúng tôi đứng về phía thảo nguyên Ama Thượng, sau này công tác sẽ khó triển khai.” Phật sống Tan-Trân hiểu và gật đầu: “Nhưng… nhưng tôi cũng không tiện đứng ra.” Bạch chủ nhiệm lại nói: “Nếu ngài phật gia không muốn ra mặt thì tôi đành đến đấy vậy, nhưng chỉ e các tù trưởng không nghe tôi, không đạt được mục đích cứu người. Có đi cũng bằng không.”

Việc thương lượng giữa 2 người do Mắt Kính Lý Ni-ma phiên dịch. Hầu như Bạch chủ nhiệm và Lý Ni-ma nghĩ ra hết lý do này đến lý do nọ để thuyết phục Phật sống Tan-Trân. Nét mặt vốn đã đăm chiêu của phật sống Tan-Trân lại càng đăm chiêu. Ngài biết không thể chậm trễ them nữa. Nếu cứ bàn đi tính lại như vậy, 7 sinh mạng sẽ trở thành tàn phế, 7 bàn tay máu đầm đìa sẽ thành thức ăn cho chó sói. Ngài cho người đi gọi lạt ma gậy sắt Tạng Cha-xi đến, lệnh dẫn người đi ngăn cản nghi thức chặt tay của bộ lạc Mục Mã Hạc đang cử hành dưới núi vọng gác.

Tạng Cha-xi gõ gậy sắt xuống đất 1 cái, quay lưng định đi ngay. Phậ sống Tan-Trân gọi lại hỏi: “Lạt ma gậy sắt, con đi thật ư?” Tạng Cha-xi quay người lại nói: “Dạ, nghe chỉ bảo của phật gia, con đi đây ạ.” Phật sống Tan-Trân lắc đầu: “Không phải ta bảo, mà là con tự ý đi.” Tạng Cha-xi nửa hiểu nửa không, đứng ngây ra. Phật sống Tan-Trân nói: “Ý ta nói, con tự ý cứu 7 kẻ thù Ama Thượng, không phải nhà chùa cứu. Cứu kẻ thù sẽ đắc tội với bộ lạc. Là con, con sẽ đắc tội với bộ lạc chứ không phải nhà chùa.”

Tạng Cha-xi nghĩ 1 lúc nói: “Con hiểu rồi ạ.” Phật sống Tan-Trân nói: “Con phải hiểu rõ, đắc tội với các bộ lạc con phải trả giá. Con là người chấp pháp của thảo nguyên. Hôm qua con thả hết kẻ thù đã là hành động phản nghịch, con sẽ bị đuổi khỏi chùa Chia-cu Tây, suốt đời không được làm lạt ma. Bây giờ con lại dẫn người đi cứu kẻ thù thoát khỏi lưỡi dao chặt tay, theo tập quán cổ xưa, đó là tội chồng thêm tội. Họ bắt được con sẽ chặt cả 2 bàn tay con đấy.” Tạng Cha-xi đứng nghệt ra. Phật sống Tan-Trân lại nói: “Đối với thảo nguyên chúng ta, tập quán tức là luật pháp. Ta không thể làm trái được. Con phải nghĩ xa hơn 1 chút. 1 khi con cứu kẻ thì, con không chỉ mất đi 2 bàn tay, còn mất đi cả bộ lạc, cả cộng đồng, mất đi đàn gia súc nuôi con sinh sống. Có lẽ con sẽ chỉ là 1 kẻ ăn mày, 1 tha-ua lang thang suốt đời, là cô hồn.” Nghe đến đây Tạng Cha-xi bất giác rung mình, rồi bỗng ném gậy sắt xuống đất, quỳ xuống hướng về Thiên Mẫu Cát Tường đang tọa tại chính giữa thần điện hộ pháp lạy 1 lạy, rồi quay lại lạy phật sống Tan-Trân 1 lạy và nói: “Con cầu nguyện chư phật và hộ pháp giúp con tai qua nạn khỏi, chiến thắng mọi ma chướng. Con đành phải đi thôi, vì 1 lạt ma không thể chỉ sống vì bản thân mình, giống như con Ngao Tạng chiến đấu không phải chỉ vì riêng nó.” Phật sống Tan-Trân nói: “Đúng vậy, con vì chùa Chia-cu Tây mới phải làm như vậy, Thiên Mẫu Cát Tường thiêng liêng và tất cả phật tăng pháp tăng sẽ phù hộ cho con. Con mau đi đi, e rằng không kịp nữa.”

Tạng Cha-xi đứng dậy, cầm gậy sắt lên, sải những bước dài đi ra.

Những sự việc ấy sau này cho tôi mới biết. Cha tôi còn biết chùa Chia-cu Tây là do các vị tiền bối của tù trưởng các bộ lạc thảo nguyên Chia-cu Tây góp tiền xây lên. Từ xưa tới nay, toàn bộ chi phí sinh hoạt trong chùa đều do các bộ lạc và tín đồ đóng góp. Đã như vậy, chùa phải phục vụ các bộ lạc là chuyện đương nhiên. Tất cả việc phục vụ của nhà chùa quan trọng nhất là thể hiện ý chí của bộ lạc, bao gồm việc phục thù, thỏa mãn mọi yêu cầu của các bộ lạc đề ra dưới danh nghĩa tín ngưỡng và tập tục. Nếu chùa đi ngược lại tập tục của thảo nguyên và ý chí của bộ lạc, các bộ lạc sẽ triệu tập hội nghị liên minh, đưa ra quyết định trừng phạt nhà chùa: cắt đứt mọi nguồn cung cấp hoặc mời phật sống, lạt ma nào không nghe lời ra khỏi chùa, mời phật sống, lạt ma nghe lời từ nơi khác đến trụ trì chùa Chia-cu Tây. Phật sống Tan-Trân rõ rang không muốn đi tới nước ấy. Nhưng ngài lại ý thức được nếu không cứu 7 đứa trẻ Ama Thượng là trái với Phật chỉ và Phật ý. Vì vậy phật sống Tan-Trân đành đi nước cờ hạ sách, để lạt ma gậy sắt Tạng Cha-xi làm việc này trên danh nghĩa cá nhân, gánh chịu mọi trách nhiệm thay nhà chùa.
 

ohcuey

Member
Lạt ma gậy sắt Tạng Cha-xi dẫn toàn bộ lạt ma gậy sắt và chó nhà chùa chạy đến đài hành hình. Họ cướp lại 7 đứa trẻ Ama Thượng từ tay 7 người đàn ông lực lưỡng rồi dung người che chắn bảo vệ cha tôi và Cang-rư-sân-cơ, cả cô gái Mây-tô-la-mu nữa. Sau đó Tạng Cha-xi lớn tiếng tụng kinh “Sa lợi thiện Thiên mẫu chú”, điều đó nghĩa là Tạng Cha-xi phụng lệnh của thần hộ pháp Thiên Mẫu cát tường đến cướp 7 đứa trẻ. Chúng chỉ là những đứa trẻ, có nên đối xử vơi chúng như kẻ thù không? Việc đó còn phải xin phán quyết của Thiên Mẫu cát tường. Đám đông không ai dám cả gan cản trở Tạng Cha-xi. Dù việc đọc kinh “Sa lợi thiện thiên mẫu chú” sẽ nhanh chóng bị chứng minh là giả mạo ý chí của Phật, nhưng lúc này, tất cả mọi người đều tin rằng hành động của Tạng Cha-xi không chút giả dối, đều tin rằng những gì đến nhanh như cuồng phong như lạt ma gậy sắt và bầy chó nhà chùa, trong tâm linh sâu thẳm của mọi người là dấu hiệu của 1 sức mạnh chí tôn chí cao mà chúng sinh phải kính nể phục tùng.

Trên đài hành hình, đao cán đầu lâu không còn sang lên ánh bạc lóa mắt nữa. 2 đao phủ đeo mặt nạ đầu Ngao và 7 đại hán lực lưỡng đều đứng bất động như hóa đá. Thủ lĩnh quân sự bộ lạc Mục Mã Hạc, tướng cướp Chia-ma-chua quát lên tiếng gì đó với Tạng Cha-xi, quản gia Chi-Mây của bộ lạc song Dã-la ra hiệu ngăn lại.

Dưới đài hành hình, 7 pháp sư đội mũ đỏ không lớn tiếng tụng kinh nữa. 7 thần Hán đội mũ đen không gõ trống đầu người nữa. 7 mụ phù thủy đang vừa múa vừa hát quanh đài hành hình cũng đứng lại. Họ là những chức sắc thần linh, họ không có cách nào ứng phó với lạt ma gậy sắt chùa Chia-cu Tây, vì họ chỉ thuộc về bộ lạc Mục Mã Hạc, còn lạt ma gậy sắt là thuộc về cả thảo nguyên Chia-cu Tây, lớn hơn bộ lạc Mục Mã Hạc nhiều. Hơn nữa, họ là những tu sĩ thuộc phái Bản giáo cổ xưa, mà phái này từ lâu đã quy về phật giáo chùa Chia-cu Tây rồi.

Sau này dần dần cha tôi mới biết, phật giáo chiếm vị trí thống lĩnh tất cả các tôn giáo trên thảo nguyên. Nguyên nhân cơ bản là Phật giáo được triều đình các đời vua và chính phủ trung ương công nhận và sắc phong, còn Bản giáo thì không. Chưa bao giờ Bản giáo giành được vị trí tôn giáo nào của chính phủ trung ương. Còn về cách hành giáo của Bản giáo là trừ tà khử ma, Phật giáo là theo đuổi quang minh. Phật giáo theo đuổi quang minh vừa thông minh vừa rộng lượng. Khi Phật giáo truyền vào thảo nguyên đã tiếp nạp tất cả chư vị thần linh trừ tà khử ma của Bản giáo vào môn hạ, vì vậy không những khiến Phật giáo cũng có khả năng trừ tà khử ma, còn khiến Bản giáo hoàn toàn trở thành 1 bộ phận của Phật giáo. Tuy rằng nghi thức tín ngưỡng, quy tắc tuân thủ và tập quán đã hình thành từ lâu đời của các bộ lạc Bản giáo không thay đổi mấy, nhưng sự phụ thuộc về tâm lý và sự gửi gắm linh hồn thì đã có nhiều thay đổi. Sự thay đổi là dân chúng nhanh chóng ý thức được rằng tín ngưỡng của mình không còn là Bản giáo nguyên thủy nữa mà là Phật giáo, vì khi họ đến lễ chùa Chia-cu Tây, họ phát hiện tất cả tổ tiên mà họ sung bái và các vị thần linh của Bản giáo mà họ nể sợ đều có được vị trí của mình tại phật điện huy hoàng trong chùa. Hơn nữa những vị trí đó đều là người theo đuổi và truyền đạo Phật, là thần hộ pháp của Phật giáo.

Họ đến ào ào như gió cuồng phong, lại đi như nước chảy. Khi lạt ma gậy sắt Tạng Cha-xi rời khỏi nghi thức hành hình bị “chết yểu”, theo sát vị lạt ma là Cang-rư-sân-cơ và 7 đứa trẻ Ama Thượng, rồi đến cha tôi và cô gái người Hán Mây-tô-la-mu. Mười mấy vị lạt ma gậy sắt và đàn chó nhà chùa đi 2 bên và bọc hậu bảo vệ họ.

Chó nhà chùa đương nhiên biết mặt con Cang-rư-sân-cơ chết tiệt xâm phạm lãnh thổ này. Nhưng chúng càng biết ý muốn của lạt ma gậy sắt Tạng Cha-xi. Vì vậy chúng chỉ có thể bảo vệ chứ không được phép cắn Cang-rư-sân-cơ. Vạn nhất chó lãnh địa đứng xung quanh xông đến cắn xé nó, chúng còn phải đứng ra chống trả, dù có làm tổn thương hòa khí anh chị em trong nhà.

Chó lãnh địa và chó Tạng khác của thảo nguyên Chia-cu Tây cũng giống chó nhà chùa, chúng không ngu ngốc chút nào. Giống như những người du mục thế tục tôn trọng lạt ma trong chùa, bọn chó cũng rất tôn trọng chó nhà chùa. Chúng thấy chó nhà chùa đều bảo vệ Cang-rư-sân-cơ thì chúng đành im hơi lặng tiếng. Có phẫn nộ hung hăng đến đâu cũng phải cố mà kiềm nén, kiềm chế. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao là con chó phẫn nộ nhất, nhưng cũng là con chó biết kiềm chế nhất. Nó hữu nghị chào hỏi chó nhà chùa. Nó đến gần Cang-rư-sân-cơ ngửi thật mạnh. Nó ngửi như vậy, mùi của Cang-rư-sân-cơ sẽ in đậm trong ký ức nó, suốt đời không quên. Trong bụng nó nghĩ: “Tên xảo quyệt kia, lần sau bất kể mày đội lốt da bò, da cừu hay da báo, da gấu, ta cũng không bị lừa trúng kế mày nữa đâu.” Với bản lĩnh thâm trầm bình tĩnh của 1 Ngao Vương, nó cười cười với đàn chó rồi khệnh khạng bỏ đi. Ngao đực xám già và Ngao đen Cô-rư luôn theo nó không rời nửa bước cũng theo chân nó bỏ đi.

Lạt ma gậy sắt Tạng Cha-xi và mọi người đi không được nhanh lắm vì phải chờ Cang-rư-sân-cơ. Đang đi, đoàn người phải dừng lại. Họ thấy Cang-rư-sân-cơ không nhấc nổi chân nữa. Vết thương của nó chưa lành, thể lực đã vượt qua giới hạn. Thêm nữa thần kinh căng thẳng cực độ, rốt cuộc nó không trụ được nữa, chưa ngã xuống thì đã hôn mê. Cha tôi biết mình không cõng nổi nó, nhưng vẫn cúi xuống định cõng. Tạng Cha-xi đẩy cha tôi ra, gọi 2 người lạt ma khác khiêng con Cang-rư-sân-cơ đặt trên lưng mình. Đoàn người càng đi càng nhanh như gió thổi ào ào. Lát sau họ đã cách xa đám người và chó, đi mất hút.

Đám tù trưởng và quản gia ăn mặc sang trọng kia đều im lặng. Tất cả đám đông người và chó đều im lặng.

Bỗng nhiên như tiếng trống phá vợ sự im lặng đó, tù trưởng bộ lạc Mục Mã Hạc Ta-cơ-niê-y cao giọng nói: “Nhà chùa sao lại làm vậy? Phật sống Tan-Trân hoàn toàn sai rồi. Làm sao có thể xử lý 7 kẻ thù Ama Thượng như vậy? Sao lại dung túng cho cái người tự xưng là Hán bồ tát đã cứu mạng chó? Còn con Ngao đực sư đầu kia ai chứng mình được nó kiếp trước thật sự là sư tử núi Tuyết A-ni-ma-chinh? Các vị tù trưởng, các vị nói đi, phải chăng chúng ta nên triệu tập hội nghị liên minh? Bộ lạc Mục Mã Hạc chúng tôi mất mặt không quan trọng, nhưng phá hỏng luật lệ của thảo nguyên thì quan trọng đấy.” Tù trưởng bộ lạc sông Dã-la Suô-lang-uang-tuôi lắc đầu, nhưng lại không nói ra lắc đầu nghĩa là gì.

Chó lại sủa, chúng biết nhanh hơn người là nghi thức nghiêm túc kia đã kết thúc. Những con cún con lại bắt đầu đuổi nhau nô đùa. Vài con chó đến thời yêu đương lại cham mũi liếm lông nhau. Chó quen lại bắt đầu hỏi han nhau. Chó lạ lại bắt đầu chào hỏi làm quen, ầm ỹ náo nhiệt hẳn.

Các tù trưởng và quản gia rời khỏi đó rất nhanh. Sau đó đám đông người cũng giải tán ra về. Chó cũng giải tán nốt. Đài hành hình trở lại yên tĩnh. Chim ưng trọc đầu lượn lờ trên không, càng lượn càng xà thấp xuống. Chúng vừa đậu xuống thì sói tuyết cũng xuất hiện. Nhưng cả chim ưng trọc đầu và sói tuyết đều thất vọng, vì chúng chẳng kiếm chác được gì để ăn cả.

Trong khi đang thất vọng thì chúng thấy trên màu xanh của đồng cỏ xuất hiện 1 người. Người này trên đầu vấn 1 bím tóc thật to, trên bím tóc gắn dây tơ độc và những hạt hổ phách cực lớn. Trên hạt hổ phách khắc hình bán thân của nữ thần La sát đầu ếch, mắt máu. Người ấy mặc áo bào Tạng đỏ như máu, trên lưng thắt 1 cái thắt lưng diêm la làm bằng da gấu, gắn 1 xâu đầu lâu quỷ con làm bằng xương bò. Trước ngực đeo 1 tấm gương sang óng ánh theo bước chân ông ta. Chim ưng trọc đầu và sói tuyết thoáng thấy người ấy như thấy Diêm Vương hiện hình, vội cao chạy xa bay mất hút.
 

ohcuey

Member
Vừa về đến chùa Chia-cu Tây, mười mấy vị lạt ma gậy sắt và đàn chó chùa tản đi ngay. Tạng Cha-xi cõng Cang-rư-sân-cơ về tăng xá cha tôi đang ở, đặt nó xuống cạnh con Ngao đen Na-rư, rồi đến thẳng phật sống Tan-Trân phục mệnh. Anh quỳ trước phật sống, mặt đượm vẻ bi ai: “Phật gia thiêng liêng, con đã hoàn thành sứ mạng. Giờ con phải đi đây.” Phật sống Tan-Trân nói: “Con nói con sẽ đi khỏi chùa ư? Con đừng vội như vậy. Hãy về phòng con đã. Lát nữa ta sẽ cho người gọi con.”

Tạng Cha-xi lại tìm đến Tạng y Tô-y-thê, lo lắng vô cùng, nói: “Vua thuốc lạt ma nhân từ, hãy cứu mạng Cang-rư-sân-cơ. Nó không chịu được nữa rồi.” Tạng y Tô-y-thê nói: “Việc của Tạng Cha-xi ta đã biết rồi. Họ sẽ chặt tay người thật ư? Hãy luôn tụng niệm pháp hiệu của phật Đông phương đại y vương, dược sư Lưu ly quang Như Lai, người sẽ được giải trừ những đau khổ đến từ tâm linh và xác thịt.” Tạng Cha-xi thành kính vâng lời, quỳ lạy rồi đi ra.

Đợi khi Tạng y Tô-y-thê đến tăng xá cha tôi ở, phật sống Tan-Trân đã có 1 quyết định dứt khoát: cử người đưa 7 đứa trẻ Ama Thượng và cõng Cang-rư-sân-cơ còn hôn mê cùng Ngao đen Na-rư gần đất xa trời đến giấu trong động Mật Linh trong núi tuyết Ang-la, nơi các rư-chao-pá (người tu sĩ tu hành trên núi tuyết) thường đến tu hành. Phật sống cân nhắc 2 mặt: 1 là 7 đứa trẻ Ama Thượng và Cang-rư-sân-cơ cần được bảo vệ, không thể để chúng lại rơi vào tay các bộ lạc; 2 là Ngao đen Na-rư và Cang-rư-sân-cơ đều bị thương nặng, phải được bàn tay Tạng y Tô-y-thê chữa trị. Nếu không mang cả 2 con đi, Tô-y-thê sẽ phải đi lại giữa chùa Chia-cu Tây và đông Mật Linh thường xuyên. Không sợ đi lại vất vả mà là sợ bị người ta theo dõi phát hiện. 1 khi người bộ lạc biết 7 đứa trẻ Ama Thượng và Cang-rư-sân-cơ trốn trong động Mật Linh trong núi Ang-la, họ sẽ phái sát thủ đến chặt tay chúng, thậm chí có thể ám sát. Vì vậy phật sống Tan-Trân cử Tô-y-thê đến động Mật Linh chữa trị vết thương cho Cang-rư-sân-cơ và Ngao đen Na-rư, ở cùng 7 đứa trẻ, đợi vết thương đỡ mới xuống núi.

Tạng y Tô-y-thê gật đầu vâng dạ. Ông xem qua vết thương của Cang-rư-sân-cơ rồi lấy từ túi da báo ra 1 viên thuốc hoàn tán màu đỏ, nhét vào mõm con Cang-rư-sân-cơ vẫn còn mê man, rồi vuốt mạnh cuống họng để thuốc trôi xuống. Sau đó thưa với phật sống: “Bẩm phật gia, con đi chậm, con đi trước 1 bước.”

Sau nửa tiếng, đoàn người rời khỏi chùa Chia-cu Tây lên đường. 7 đứa trẻ Ama Thượng mỗi đứa vác 1 túi làm bằng dạ dày bò hong khô, trong túi đựng đầy pho mát, bơ và bột rang thanh khoa. 2 vị lạt ma gậy sắt lực lưỡng cõng Cang-rư-sân-cơ và Na-rư. Còn 2 vị lạt ma gậy sắt nữa, mỗi vị cõng 1 túi da bò nặng trịch, trong túi đựng thịt bò khô, váng sữa khô, chà phư, phổi bò khô và xương dê băm vụn. Trên miệng túi buộc 1 chiếc ấm đồng đun trà sữa, phản chiếu ánh sang hơn cả tia mặt trời.

Tiễn họ đi rồi, phật sống Tan-Trân cho gọi Tạng Cha-xi đến tăng xá của mình. Ngài muốn nói với vị lạt ma gậy sắt trung thành với mình và nhà chùa rằng Tạng Cha-xi có thể trốn vào động Mật Linh trên núi Ang-la cùng 7 đứa trẻ Ama Thượng. “Ta sẽ loan tin ngươi đem 7 đứa trẻ cùng chạy trốn rồi, không biết chạy đi đâu. Như vậy tuy ngươi không thể tiếp tục làm lạt ma gậy sắt ở chùa Chia-cu Tây, nhưng ít ra có thể bảo tồn đôi tay. Sau này tình hình của thảo nguyên còn chưa biết ra sao. Trốn qua đợt này, không chừng ngươi sẽ được an toàn.” Nhưng phật sống Tan-Trân chưa kịp nói ra những ý nghĩ táo bạo này với Tạng Cha-xi thì người sai đi gọi đã về bẩm báo: Tạng Cha-xi đã rời khỏi chùa rồi. Ông để lại 1 áo bào đỏ tượng trưng cho địa vị lạt ma, để lại gậy sắt đại diện cho luật pháp của thảo nguyên và ý chí của nhà chùa, chỉ đem theo có cái chày kim cang, là vật phật sống Tan-Trân tặng cho từ lâu, khi ông được chọn là lạt ma gậy sắt. Ông đã lẳng lặng ra đi rồi.

Trên con đường núi quanh co dẫn đến núi tuyết Ang-la, thằng bé cởi trần Pa-ơ-chiu-chu khôn khéo tránh được tầm nhìn của 7 đứa trẻ và 4 vị lạt ma gậy sắt. Nó từ xa đi theo chân họ.

Trên 1 con đường núi khác cũng dẫn đến núi tuyết Ang-la, Tạng Cha-xi có ý định vượt qua núi tuyết rồi lưu lạc đến 1 phương xa nào đó. Ông nhìn thấy 7 đứa trẻ Ama Thượng và 4 vị lạt ma gậy sắt, cùng lúc cũng nhìn thấy Pa-ơ-chiu-chu đang theo dõi họ từ xa. Tạng Cha-xi giật mình vội bước thật nhanh. Sau nửa tiếng, Tạng Cha-xi đã đứng chặn trước mặt Pa-ơ-chiu-chu nói nghiêm khắc: “Mày đi làm gì? Mày là người phàm tục, lại là 1 đứa trẻ, mày không sợ con trai chưa được dạy dỗ của thần núi biến thành con cú ác mổ con ngươi của mày sao?” Pa-ơ-chiu-chu dừng lại, ngẩn người ra 1 lúc, rồi như con hươu môi trắng bị giật mình, quay người chạy. Nó theo dốc núi tuyết tụt ào xuống đáy rãnh núi, làm tuyết bay tung tóe.

Tạng Cha-xi đuổi theo, đang định tụt xuống đáy rãnh núi, bỗng nhìn thấy 1 người đứng đó. Người này bím tóc to cuốn trên đầu, gắn dây tơ độc, đeo tràng hạt hổ phách, áo bào Tạng đỏ, dây lưng diêm la, đeo huỗi hạt đầu người, chân dung nửa người của nữ thần la sát đầu ếch mắt máu, ngoài ra còn đeo gương chiếu được tất cả những sự việc xảy ra trong tam thế (quá khứ, hiện tại, tương lai), có cả ảnh toàn thân của chúa mộ tang tay cầm bút hình đầu sọ uống máu. Thấy người đó, Tạng Cha-xi kêu lên 1 tiếng “ối!” rồi quay lưng đi ngay.
 

ohcuey

Member
Cha tôi và Mây-tô-la-mu ngồi trên mép giường của Lý Ni-ma, đối diện với giường của Bạch chủ nhiệm. Lý Ni-ma cầm ấm đồng đặt trên bếp lò xuống rót cho mỗi người 1 bát trà sữa nóng, rồi để cái thùng gỗ đựng bột mì thanh khoa rang bên cạnh cha tôi. Còn anh ta nhún nhường ngồi trên thảm cạnh giường Bạch chủ nhiệm, như 1 con cún con ngẩng mặt lên nhìn Bạch chủ nhiệm 1 cách nghiêm túc.

Bạch chủ nhiệm nói: “Các đồng chí có biết không, không nói chuyện xa xưa, chỉ nói trong 20 năm gần đây thôi, người của thảo nguyên Ama Thượng đã giết bao nhiêu người của các bộ lạc Chia-cu Tây, các đồng chí có biết không?” Ngừng 1 chút, ông nói tiếp: “Bảo cho các đồng chí biết, có đến mấy trăm người đấy.” Cha tôi nói: “Có lẽ cả 2 bên đều có người chết.” Bạch chủ nhiệm nói. “Không. 20 năm trước thì đúng là cả 2 bên đều có người bị giết vì tranh chấp đồng cỏ không rõ là của bên nào. Chiến tranh năm nào cũng xảy ra, cũng có người chết. Đúng là cả 2 bên, bên anh chết 8 thì bên tôi chết 9 chẳng hạn. Nhưng sau này, bắt đầu từ năm dân quốc thứ 27, tình hình có khác đi. Tiểu đoàn người Hán của Mã Bộ Phương đóng tại thảo nguyên Chia-cu Tây. Chúng hạch sách đủ điều, bắt các bộ lạc cung cấp thịt bò, dê, thịt chó. Thịt bò, dê đương nhiên là được, muốn lấy con sống thì cho con sống, muốn lấy con đã mổ thì cho con đã mổ, nhưng thịt chó thì trăm ngàn lần không được. Bà con dân Tạng nói không được ăn thịt chó, ăn thịt chó có khác gì ăn thịt người? Anh chị em chúng bay, liệu chúng bay có ăn thịt họ không? Đòi ăn thịt chó thì ăn thịt chúng tôi trước đi. Tay tiểu đoàn trưởng có biệt hiệu là vua thịt chó nói: “Bọn bay có biết sung để làm gì không? 1 là giết chó Tạng, 2 là giết những ai không cho ăn chó Tạng.” Nhưng tay tiểu đoàn trưởng quân Hán đã không nghĩ đến dân Tạng cũng có sung trong tay. Bắt đầu giết chó cũng là bắt đầu sự phản kháng. Không những dân Tạng chống trả mà chó Tạng, đặc biệt là Ngao Tạng cũng chống trả vô cùng dũng mãnh. Đấy chính là cuộc chiến Ngao Tạng nổi tiếng tại thảo nguyên Chinh-cô-ama. Các đồng chí biết không?”

Cha tôi vừa ăn bánh do mình tự trộn vừa hỏi: “Chết bao nhiêu người chủ nhiệm nói rồi, nhưng bao nhiêu con Ngao Tạng bị chết thì chưa thấy nói.” Bạch chủ nhiệm phẩy tay gạt câu hỏi của cha tôi và tiếp tục nói: “2 tháng sau, tiểu đoàn quân Hán không cầm cự được nữa, vừa đánh vừa rút khỏi Hiệp Lan Đạo. Sau đó Mã Bộ Phương phái 1 trung đoàn kỵ binh đến thảo nguyên Chinh-cô-ama đàn áp “phiến loạn”. Bộ chỉ huy và quân chủ lực đóng tại thảo nguyên Ama Thượng. Các bộ lạc Ama Thượng xun xoe, nào là tặng vàng bạc, mời ăn uống. Tù trưởng bộ lạc sông Ama, Chia-pa-tô còn dâng cả em gái mình cho trung đoàn trưởng làm thiếp. Nghiêm trọng hơn là cả 2 lần tẩy máu thảo nguyên Chia-cu Tây đều có kỵ thủ của thảo nguyên Ama Thượng tham gia. Những kỵ thủ này chẳng khác gì kỵ binh của Mã Bộ Phương, không những giết người còn giết cả chó, hoàn toàn không giống người của thảo nguyên nữa. Tất cả dân bộ lạc Chia-cu Tây đều căm ghét chúng còn hơn cả căm ghét lính Mã Bộ Phương. Bối cảnh lịch sử này các đồng chí biết không?”

Cha tôi ăn hết miếng bánh cuối cùng, nhích người vào giữa giường, dựa vào chăn của Lý Ni-ma, ngáp dài 1 cái: “Mới đến thảo nguyên, chủ nhiệm đã kể cho tôi nghe rồi, có điều không tường tận như hôm nay.” Bạch chủ nhiệm nói: “Hôm nay tôi không ngại nói đi nói lại với đồng chí, chủ ý là để mọi người nắm được tính chất nghiêm trọng của vấn đề. Áp dụng chính sách cô lập thảo nguyên Ama Thượng là lập trường của ta. Tuy nghiên 7 đứa trẻ Ama Thượng không thể không cứu chúng, nhưng cứu thì ta phải trả giá. Cái giá đó là Hán Cha-xi ngày mai phải rời khỏi thảo nguyên Chia-cu Tây để tránh sự thù hằn của dân địa phương do hiểu lầm. Đừng để thù hận xảy ra bất trắc, nghe rõ chưa?” Bạch chủ nhiệm thấy cha tôi nhắm nghiền mắt không trả lời, lại nói: “Bất kể hành động của đồng chí có gây thù hằn hay không, ngày mai tôi phải cho người đưa đồng chí đến Tổng bộ Tô-mi, ủy ban công tác thảo nguyên Chinh-cô-ama.”

Có tiếng ngáy. Thì ra cha tôi đã ngủ lúc nào không biết. Cả đêm hôm trước ông không chợp mắt, hôm nay lại lặn lội vất vả cả ngày, ông không còn bám trụ được nữa.


Để các tù trưởng và quản gia các bộ lạc được mời đến dự nghi lễ hình phạt chặt tay không bị cụt hứng, tù trưởng bộ lạc Mục Mã Hạc Ta-cơ-niê-y mời mọi người vào nhà bạt rộng lớn trang trí đầy màu sắc bên bờ sông Dã-la, rồi đích thân tù trưởng cưỡi ngựa đến chùa Chia-cu Tây mời phật sống Tan-Trân đến uống trà ăn thịt. Trong lúc mọi người đang ăn uống, hội nghị liên minh các bộ lạc thảo nguyên Chia-cu Tây cũng bắt đầu.

Phật sống Tan-Trân nói: “Nhà chùa có 1 lạt ma phản nghịch. Nó đưa người xông lên đài hành hình cướp 7 kẻ thù Ama Thượng và Cang-rư-sân-cơ. Tôi thật không dám nhìn mặt các vị nữa. Để tạ tội với các vị, tôi đã khai trừ kẻ lạt ma gậy sắt đó vì đã vi phạm quy định của nhà chùa. Phạt hắn suốt đời không được làm lạt ma nữa.” Các tù trưởng ngồi xếp bằng trên thảm đều đưa mắt nhìn nhau.

Tù trưởng Xua-lang-uang-tuôi của bộ lạc sông Dã-la nói: “Hóa ra lạt ma đến làm náo loạn quấy phá không phải do nhà chùa sai đến? Thế thì ta yên tâm rồi. Phật gia ngài quyết định thật sang suốt. Lạt ma như vậy quyết không nên giữ lại trong chùa.” Tù trưởng bộ lạc Mục Mã Hạc Ta-cơ-niê-y tiếp lời: “Tôi đã bảo mà, nhà chùa sao có thể làm như vậy. Hóa ra không liên quan đến phật sống Tan-Trân. Thế thì dễ giải quyết rồi. Những kẻ xấm phạm phải trả giá theo quy định của thảo nguyên. Kẻ thù Ama Thượng đã thua trong cuộc vật nhau 1 chọi 1 thì nhất định phải bị chặt tay rồi đuổi khỏi thảo nguyên Chia-cu Tây. Người của Ama Thượng chạy theo Mã Bộ Phương. Họ Mã là ma quỷ. Chạy theo ma quỷ cũng là ma quỷ. Chặt tay của ma quỷ, chúng sẽ không hại được người của thảo nguyên Chia-cu Tây nữa. Còn con chó đực sư đầu tên Cang-rư-sân-cơ kia, nếu quả thật nó là sư tử núi tuyết chuyển thế, thì trước hết nó phải được tất cả các con Ngao Tạng thừa nhận. Những Ngao Tạng của thảo nguyên Chia-cu Tây liệu có thừa nhận nó không? Còn Hán bồ tát, người tự xưng đã cứu 2 mạng chó, theo tôi chúng ta phải đặt vấn đề nghi ngờ. Liệu người ấy có phải do thảo nguyên Ama Thượng cử đến không? Sao người ấy có thể tự ý chạy lên đài hành hình can thiệp vào việc của các bộ lạc thảo nguyên Ama Thượng chứ?”

Mọi người gật đầu tán thưởng lời nói của 2 vị tù trưởng.

Phật sống Tan-Trân nói: “Thần núi A-ni-ma-chinh báo mộng cho lạt ma già Tuân-ca, nói Cang-rư-sân-cơ tính mạng đang gặp nguy hiểm, nhất định phải cứu mạng nó, vì kiếp trước nó là sư tử núi tuyết A-ni-ma-chinh, từng bảo vệ tất cả tăng lữ tu hành trên núi. Điều này đúng trăm phần trăm, vị lạt ma già Tuân-ca không bao giờ nói dối. 1 con chó quý có duyện với Phật theo 1 người Hán đến thảo nguyên Chia-cu Tây, chẳng lẽ người Hán đó lại là hóa thân của ma quỷ? Là gián điệp của Ama Thượng? Không, anh ta là con người cát tường đem lại may mắn. Anh ta liều mạng cứu và bảo vệ Cang-rư-sân-cơ, hơn nữa lại dùng sức mạnh thần kỳ khiến 1 con chó lãnh địa thảo nguyên Chia-cu Tây chúng ta chết đi sống lại. Mà con chó được anh ta cứu sống lại chính là con Ngao đen Na-rư suýt cắn chết anh ta. Vị thánh vĩ đại Mi-la-rư-pa của chúng ta từng nói: “Thái độ đối với thảo nguyên chính là thái độ với gia súc. Thái độ với chó chính là thái độ với người.” Lời nói trí tuệ này khiến ta nghĩ thái độ người Hán này đối với Ngao Tạng cũng chính là thái độ đối với chúng ta. Chẳng lẽ chúng ta lại đối xử với 1 người bạn như đối xử với kẻ thù ư? Ta thỉnh cầu các vị hãy tin lời ta nói. Bồ tát lấy việc thiện làm gốc, lấy từ bi ôm ấp trong lòng. Việc làm của người Hán này chính là việc làm của bồ tát. Vì tương lai của thảo nguyên Chia-cu Tây, chúng ta nhất định phải tiếp nhận anh ta.”

Mọi người gật đầu, nhận thấy lời của phật sống Tan-Trân không sai.

Ai nấy đều tỏ rõ thái độ của mình. Cuối cùng, hội nghị liên minh đi đến thống nhất, đưa ra 3 quyết định: 1 là kiên quyết không tha cho 7 kẻ thù Ama Thượng. Phải thực hiện hình phạt chặt tay với chúng rồi đuổi chúng khỏi thảo nguyên Chia-cu Tây. 2 là tìm kiếm Tạng Cha-xi đã bị đuổi khỏi chùa để chặt 2 tay của hắn, phạt hắn trở thành “tha-ua” lang thang, tất cả các bộ lạc đều không được thu nhận. 3 là sau khi vết thương của Cang-rư-sân-cơ lành hẳn, nó phải dùng sự dũng mãnh và trí tuệ của mình để chứng minh nó là sư tử núi tuyết cự phách. Nếu không chứng minh được, nó không được phép sống tại thảo nguyên Chia-cu Tây. Còn người Hán đó, theo lời phật sống Tan-Trân, thừa nhận anh ta là Hán bồ tát, nhưng anh ta không được nhúng tay vào việc của thảo nguyên và bộ lạc. Nghĩa là không những vẫn phải chặt tay 7 đứa trẻ Ama Thượng, cuộc chiến giữa Cang-rư-sân-cơ và con Ngao Tạng ưu tú nhất của thảo nguyên Chia-cu Tây vẫn phải diễn ra, vì hầu như tất cả các tù trưởng đều cho rằng, nếu Cang-rư-sân-cơ là sư tử núi tuyết thì nhất định nó phải bách chiến bách thắng. Trên thảo nguyên không 1 con người nào, không 1 Ngao Tạng nào không phải trải qua sự chinh phục về thể xác hoặc tinh thần mà có thể giành lấy địa vị, được tôn sùng và hưởng danh dự cao quý.

Dự hội nghị liên minh các bộ lạc về đến chùa Chia-cu Tây thì trời đã tối, phật sống Tan-Trân đến thẳng Minh Vương điện Mật tông, tọa lạc ở nơi cao nhất chùa Chia-cu Tây ngồi tụng kinh. Phật sống tụng niệm không biết bao nhiều lần. Ông cầu xin phù hộ cho sư tử núi tuyết, mong Cang-rư-sân-cơ chóng bình phục, sau khi bình phục sẽ giành chiến thắng khi chiến đấu. Vì quy định của thảo nguyên là như vậy. Chỉ có kẻ chiến thắng mới được người và Ngao Tạng tiếp nhận.
 

ohcuey

Member
Khi tỉnh dậy cha tôi thấy mình nằm trên giường của Lý Ni-ma, trong nhà không có một ai. Cửa và cửa sổ đều mở toang. Cảnh sắc bình minh lướt qua cửa sổ bé nhỏ. Thảo nguyên mênh mông và núi tuyết uốn lượn trải dài cô đọng trong ánh bình minh tươi sang tựa như ngọc trắng. Cha tôi hít mạnh 1 hơi khí trời đậm mùi thơm của đồng cỏ. Ông bật dậy, đi giày vào và với tâm trạng phấn khởi, bước ra ngoài cửa.

Bạch chủ nhiệm Bạch-mã-u-chinh và Lý Ni-ma đứng trên bậc them nhà vọng gác đang nói gì đó. Cách 2 người 1 quãng, không xa chuồng ngựa là 2 quân nhân dắt theo 3 con ngựa đứng đó.

Cha tôi hỏi: “Sao tôi lại ngủ ở đây nhỉ? Tôi đi đây. Tôi phải đến xem 7 đứa trẻ Ama Thượng và Cang-rư-sân-cơ, cả Ngao đen Na-rư ra sao rồi.” Bạch chủ nhiệm giữ chặt lấy cha tôi: “Anh không được đến nhà chùa nữa. Anh phải rời khỏi thảo nguyên Chia-cu Tây ngay hôm nay.” Cha tôi ngạc nhiên, mãi mới nhớ ra buổi nói chuyện của Bạch chủ nhiệm tối qua. Ông liếc nhìn 2 quân nhân vác súng nói: “Nếu tôi không đi thì sao?” Bạch chủ nhiệm nói: “Chúng tôi sẽ trói anh lại, áp giải đến tổng bộ Tô-mi.” Cha tôi thở dài. Ông đành thỏa hiệp nói: “Thì cũng phải để tôi đi chào mọi người đã chứ. Tôi chưa trị vết thương ở chùa từng ấy ngày, bây giờ phủi tay là đi, không chào hỏi ai, người ta sẽ nói người Hán chúng ta không có chút tình nghĩa.” Bạch chủ nhiệm nói: “Sau khi anh đi, tôi sẽ thay mặt ủy ban công tác đích thân đến chùa cảm ơn phật sống Tan-Trân.” Cha tôi khất lần: “Thì cũng phải cho tôi ăn sáng đã chứ.” Bạch chủ nhiệm nói: “Ăn trên đường. Họ mang rất nhiều thức ăn, có bánh pho mát bơ, có váng sữa, đủ để anh không sợ đói.” Cha tôi thấy không còn cách nào, đành nói to: “Tôi thấy thái độ của các anh đối với tôi là sai lầm.” Bạch chủ nhiệm nói: “Tôi bảo cho anh biết, nếu việc này xảy ra với tôi, tôi cũng sẽ không đi. Nhưng xảy ra với người khác, tôi dứt khoát phải đưa họ đi. Vì tôi có trách nhiệm bảo đảm an toàn cho bất kỳ người nào, không để xảy ra chuyện gì.” Cha tôi cố thuyết phục: “Tôi đã là Hán bồ tát, còn xảy ra chuyện gì chứ?” Bạch chủ nhiệm nói: “Vạn nhất có chuyện thì sao? Anh đã can dự vào mâu thuẫn bộ lạc, ai dám đảm bảo không có người thù hận anh?” Nói xong Bạch chủ nhiệm vẫy 2 quân nhân lại: “Mau xuất phát đi. Trên đường cẩn thận, đến Tô-mi nhất định phải bàn giao đồng chí này cho lãnh đạo tổng bộ.”

Mặt trời đã ló ra. Phía đông núi tuyết trở thành núi vàng, phía tây lại càng trắng sang long lanh. Thảo nguyên mênh mông cùng 1 nửa màu cỏ vàng, 1 nửa màu cỏ bạc. Cỏ vàng cỏ bạc thi nhau nhảy múa như những dãi lụa phất phơ theo gió, bay đến vô tận.

Cha tôi cưỡi trên con ngựa màu xám, 2 quân nhân cưỡi 2 con ngựa hồng tía đi theo sau. Ngựa hồng tía là ngựa trong quân đội, ủy ban công tác mang vào khi đóng tại thảo nguyên Chia-cu Tây. Còn ngựa xám là ngựa của thảo nguyên, mượn của bộ lạc để đưa cha tôi về. Tù trưởng Xuô-lang-uang-tuôi của bộ lạc sông Dã-la thấy Lý Ni-ma đến mượn ngựa nói cha tôi, tức Hán Cha-xi, Hán bồ tát cần, bèn chọn trong đàn ngựa 1 con thuần tính đưa cho Lý Ni-ma và nhắc đi nhắc lại: “Mượn gì chứ. Ngựa của Hán Cha-xi bị chó lãnh địa Ngao đen Na-rư của Chia-cu Tây cắn chết, đáng ra thảo nguyên Chia-cu Tây phải bồi thường mới phải. Cứ giữ lấy con ngựa này để anh ta cưỡi, không cần trả, dứt khoát không cần trả đâu.” Lý Ni-ma không kể lại cho cha tôi nghe. Cha tôi không biết ông đang cưỡi con ngựa tốt mà tù trưởng Xua-lang-uang-tuôi từng cưỡi. Cha tôi chỉ cảm thấy hơi lạ: sao những con chó lãnh địa cha tôi gặp trên đường đều tỏ ra kính nể con ngựa xám. Từ xa thấy nó chúng đã chạy đến, đứng cách mươi bước cung kính vẫy đuôi. Đợi cho con ngựa xám đi xa, trong bầy chó lãnh địa tách ra khoảng 7-8 con, dưới sự dẫn dắt của Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao, như 1 đoàn vệ sĩ đi theo cha tôi. Đúng vậy, chúng là những vệ sĩ. Chúng đang hộ tống đoàn người ngựa. Chúng biết rõ hơn cả người và ngựa trên thảo nguyên tĩnh mịch bao la này, không chừng có những con mãnh thú như sói hoặc gấu, báo thường mai phục sau đồi cỏ, bất ngờ tấn công người.

Lúc đó cha tôi còn chưa biết con dẫn đầu đoàn hộ tống, hổ đầu Tuyết Ngao chính là Ngao Vương của thảo nguyên Chia-cu Tây. Cha tôi lại càng không biết sở dĩ Ngao Vương không để những con chó lãnh địa khác thực thi công vụ mà đích thân nó hộ tống, ngoài sự kính trọng con ngựa xám của tù trưởng như kính trọng chính tù trưởng ra, còn 1 lý do khác. Nó muốn biết Cang-rư-sân-cơ hiện đang ở đâu. Đêm qua nó đã dẫn con Ngao đực xám già và Ngao đen Cô-rư đến chùa Chia-cu Tây. Nó tìm kiếm khắp mọi ngóc ngách trong chùa nhưng không đánh hơi thấy tung tích con Cang-rư-sân-cơ. Nó bèn mở rộng phạm vi tìm kiếm, rốt cuộc tìm khắp núi vọng gác vẫn không thấy. Điều khiến Ngao Vương lấy làm lạ là sáng nay nó thấy cha tôi cưỡi trên lưng con ngựa của tù trưởng Xuô-lang-uang-tuôi. “Người ấy cưỡi con ngựa của tù trưởng đi đâu nhỉ? Người ấy gần như là chủ nhân của Cang-rư-sân-cơ rồi, hay là Cang-rư-sân-cơ thất lạc rồi? Người ấy cũng đang đi tìm nó?” Theo bản năng, Ngao Vương biết cứ bám sát cha tôi rồi sẽ tìm được Cang-rư-sân-cơ. Bằng những bước đi kiên định, nó báo cho lũ bạn biết: “Phải bảo vệ tốt người này. Đó là đầu mối duy nhất để chúng ta tìm ra Cang-rư-sân-cơ.” Nhưng cha tôi lại cho rằng những con Ngao Tạng kính trọng con ngựa xám, đương nhiên cũng phải kính trọng người cưỡi trên con ngựa. Chúng bảo vệ mình tận tụy chỉ vì đó là bổn phận của chó lãnh địa.

3 người men theo sông Dã-la hướng về phía trước mà đi. Con ngựa xám luôn lội xuống nước để dòng nước mát lạnh làm dịu đi cái nóng bức ở chân do đi nhiều. Đang đi bỗng nhiên Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao gầm lên 1 tiếng lớn, nhắc nhở con ngựa xám mau lên bờ. Nó đã đánh hơi thấy mối nguy hiểm ẩn dưới nước. Con ngựa xám kiêu ngạo không nghe, cứ tiếp tục đi. Chưa đi được mấy bước chân nó dẫm vào động của chồn nước. Bị mất thăng bằng, nó nghiêng người, cha tôi bị hất ngã xuống nước. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao kêu lên, nhảy xuống nước đầu tiên. Những con Ngao Tạng khác cũng nhảy theo, lấy răng kéo cha tôi. Động của con chồn nước bình thường ở trên bờ, nhưng mùa hè nước dâng cao khiến động của nó chìm xuống nước. Đối với ngựa thảo nguyên, đây là cạm bẫy đáng ghét nhất. Cũng may cái động này không sâu lắm, con ngựa không bị trẹo chân. Nó rút chân ra, đứng thẳng dậy rồi cùng mấy con Ngao Tạng lấy răng cắn áo cha tôi lôi lên bờ. Cha tôi cảm động vô cùng. Tuy nước sông không sâu lắm, cha tôi lại biết bơi nên không thể chết đuổi được, nhưng cha tôi vẫn cho rằng chúng đã cứu mạng ông. Mấy con chó và ngựa thì cho rằng sông nước tuy không sâu, nhưng chảy xiết, người ngã xuống nước cũng như hòn đá ném xuống nước, chỉ có thể rơi tõm xuống đáy sông, vì chúng chưa từng thấy trên thảo nguyên có người biết bơi. Bảy tám con Ngao Tạng và con ngựa thở hổn hển. Chúng thấy thật là may mắn, nhìn cha tôi cười cười chúc mừng ông đã nhặt được mạng về.

2 quân nhân theo sau cha tôi qua sông thấy làm lạ hỏi: “Anh quen biết những con chó này sao?” Cha tôi trả lời: “Không quen.” 1 người khác hỏi: “Thế con ngựa? Anh đã từng cưỡi con ngựa này?” Cha tôi trả lời: “Không phải ngựa của chúng tôi. Ngựa của chúng tôi là ngựa quân đội màu hồng tía, còn ngựa này mượn của tù trưởng bộ lạc.” Cha tôi hiểu ra: “Con ngựa xám là con ngựa có linh tính, sức chịu đựng dẻo dai, tốc độ chạy rất nhanh. Khi nó phi nước đại, mấy con ngựa ngoại lai của quân đội này tuyệt đối không phải đối thủ của nó.” 1 ý nghĩ theo tiếng hí dài của con ngựa xám lóe lên trong óc cha tôi: “Hay ta cưỡi con ngựa này chạy trốn? Ta chạy về chùa Chia-cu Tây xem sao? Ta phải biết 7 đứa trẻ Ama Thượng, con Cang-rư-sân-cơ và con Ngao đen Na-rư hiện ra sao.”

1 khi ý tưởng táo bạo của cha tôi đã hình thành thì nó tác động ngay đến thói quen của ông: hễ có ý tưởng là phải hành động ngay. Như cha tôi đã từng tự cho rằng mình là 1 con Ngao Tạng, do dự nhìn trước ngó sau không phải là bản tính của ông. Cha tôi luôn nhằm 1 phía mà tiến như 1 câu trong bài hát đang thịnh hành lúc đó: “Tiến lên! Tiến lên! Đội ngũ chúng ta hướng về mặt trời mà tiến!” Lúc này cha tôi hướng về phía mặt trời phi như bay. Chạy được khoảng 15 phút, 2 quân nhân và bảy tám con Ngao Tạng đã ở tít phía sau không nhìn thấy nữa. Cha tôi rẽ sang 1 lối khác, men theo chân dốc 1 ngọn đồi cỏ quay về đường cũ. Rất nhanh, cha tôi đã đến được con sông ông vừa rơi xuống.
 

ohcuey

Member
Cha tôi ngạc nhiên vô cùng khi thấy Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao và lũ chó đang chờ ông ở đó. Dường như chúng là con giun trong bụng cha tôi, biết tỏng tòng tong mưu ma quỷ kế của cha tôi. Sự thực đấy phải là công lao của các ngọn gió. Gió trên thảo nguyên không hẳn cố định là gió Đông hay gió Tây, mà thay đổi thất thường. Gió Tây thổi từ dốc đồi cỏ đến vũng nước đồng cỏ biến thành gió Đông. Gió Đông, Tây, Nam, Bắc đều có thể đổi hướng trong cùng 1 thời gian. Hơn nữa gió thổi theo người đi. Anh đi hướng nào, gió theo anh thổi hướng đó. Những con Ngao Tạng đang đuổi theo cha tôi bỗng không đuổi nữa, vì ngọn gió báo cho chúng biết cha tôi đã lại quay về đường cũ rồi. Duy chỉ có 2 quân nhân vẫn ra sức đuổi, đuổi đến khi cho rằng cha tôi mất tích rồi mới thôi.

Cha tôi cưỡi con ngựa xám dưới sự tiền hô hậu ủng của đoàn vệ sĩ Ngao Tạng cầm đầu là Ngao Vương quay trở về đường cũ. Đi chưa được 1 giờ đồng hồ, ông thấy 1 đoàn người cưỡi ngựa từ phía Nam xuống, phi về hướng núi tuyết ở xa. Cha tôi nghĩ: “Họ là người của bộ lạc nào nhỉ? Họ đi đâu?” Đoàn người và ngựa đi khuất không lâu, cha tôi thấy 1 bóng người đi như chạy từ bãi cỏ đến. Cha tôi nghĩ trong bụng: “Người này làm gì đây? Sao trông giống hệt lạt ma gậy sắt Tạng Cha-xi.” Cha tôi đón đầu người ấy, đến gần mới phát hiện quả thật là Tạng Cha-xi, chỉ khác là trong tay ông không cầm gậy sắt tượng trưng cho luật pháp thảo nguyên và ý chí của nhà chùa, mà là 1 cái gậy đánh chó như những kẻ lang thang hay cầm.

Cha tôi ngạc nhiên từ lưng ngựa nhảy xuống. Tạng Cha-xi không giấu nổi niềm bi thương, kéo tay cha tôi: “Thế là tôi lại gặp Hán Cha-xi rồi. Tôi biết mà, thế nào tôi cũng gặp được ông. Tôi đã tìm ông suốt dọc đường.”

Tạng Cha-xi dùng tiếng Hán lưu loát kể cho cha tôi biết nơi ẩn nấp của 7 đứa trẻ Ama Thượng, Cang-rư-sân-cơ và Ngao đen Na-rư, rồi nói: “Đứa trẻ mà cô gái Hán Mây-tô-la-mu đặt cho cái tên Pa-ơ-chiu-chu ấy đã báo cho tướng cướp Chia-ma-chu bộ lạc Mục Mã Hạc biết bí mật 7 đứa trẻ kẻ thù Ama Thượng đang ẩn nấp tại núi tuyết Ang-la rồi. Tôi tin rằng không bao lâu nữa 7 đứa trẻ Ama Thượng sẽ lại rơi vào tay bộ lạc Mục Mã Hạc thôi. 7 đứa trẻ là do ông đem đến thảo nguyên Chia-cu Tây, dù thế nào ông cũng không được bỏ mặc chúng.”

Ngao Vương nghe Tạng Cha-xi nói, bỗng khẽ sủa mấy tiếng.

Cha tôi bực mình nói: “Cái thằng Pa-ơ-chiu-chu này, thật là con quỷ con. Việc hỏng là tại nó.”

"Pa-ơ-chiu-chu chỉ làm theo quy tắc của thảo nguyên trả thù cho người thân của nó. Nhưng thảo nguyên còn 1 quy tắc khác là mạng người có giá, thù cũng có lúc hết. Giá mạng người chăn gia súc là 20 nén bạc. Nhà nó chết mất 2 người, tổng cộng là 40 nén bạc. Mỗi nén bạc tương đương 70 đồng tiền bạc. Vị chi tổng cộng là 2800 đồng tiền bạc. 1 gia đình có từng ấy tiền sẽ sống rất sung túc. Không hiểu sao nó không chịu sống cuộc sống tốt như thế, cứ sống chết đòi đi báo thù. Pa-ơ-chiu-chu dù có báo thù được thì nghèo vẫn hoàn nghèo, việc đó có gì là tốt chứ? Hơn nữa chặt tay 7 thằng bé Ama Thượng cũng không được tính là báo thù, vì không phải cha của 7 đứa chúng nó giết cha và chú của Pa-ơ-chiu-chu. Người nhân từ khi nổi giận có thể đuổi đi ma đói. Người tà ác khi nổi giận lại khiến ma đói đến. Ma đói không có tay, tay của ma đói khi đi ăn xin bị họ chặt mất rồi. Ông nhìn thấy rồi đấy, đoàn kỵ sĩ phi như bay về hướng Tây đó, trong đoàn có người bị hồn ma đói ám vào người. Họ tuân theo lệnh của tù trưởng Ta-cơ-niê-y và tướng cướp Chia-ma-chu đi lùng bắt 7 đứa trẻ Ama Thượng trên núi tuyết Ang-la mang về bộ lạc Mục Mã Hạc ở thảo nguyên Long Bảo Trạch, rồi lấy danh nghĩa thần núi của bộ lạc để xử lý. Chắc chắn là lành ít dữ nhiều. Bọn trẻ sau khi bị chặt tay nếu không được Tạng y Tô-y-thê chữa trị sẽ chết dần chết mòn. Cũng may là đoàn kỵ sĩ không biết mặt tôi, còn hỏi thăm tôi đến núi tuyết Ang-la có đường nào ngắn nhất. Nếu họ biết tôi thì giờ tay của tôi đã không còn nữa rồi.”

Cha tôi cau mày: “Luật pháp của thảo nguyên đâu? Chẳng lẽ họ là luật pháp à?”

Tạng Cha-xi nói: “Còn Cang-rư-sân-cơ khi ở núi tuyết Ang-la liệu vết thương có được chữa khỏi không? Nếu vết thương lành rồi thì với trí tuệ và sự dũng mãnh, nó có thể chứng minh nó thật sự là sư tử núi tuyết không? Điều đó tôi không dám chắc. Tôi cũng không biết có sống sót được không. Tôi muốn tránh những cuộc đánh nhau có nhiều bất lợi cho Cang-rư-sân-cơ. Nhưng tôi chẳng có cách nào. Ốc còn không mang nổi mình ốc. Nói thật lòng tôi không muốn mất đi đôi tay đâu. Người không có tay sống trên thảo nguyên bị coi là tội phạm. Anh có quỳ lạy, người khác cũng không để ý đến. Hán Cha-xi hãy nghe tôi nói, anh không thể cứ thế mà đi. Anh có cách mà, tôi biết. Anh bảo Bạch chủ nhiệm Bạch-mã-u-chinh đứng ra nói lý, nói tốt cho 7 đứa trẻ Ama Thượng, Cang-rư-sân-cơ và cả tôi nữa. Có như vậy số phận của chúng tôi mới không kết cuộc bi thảm.”

Ngao Vương hổ đầu tuyết Ngao không hiểu sao lại sủa thêm mấy tiếng.

Cha tôi nói: “Tôi hiểu Tạng Cha-xi à. Anh không cần nói thêm nữa. Tôi phải đi ngay đây. Đáng lẽ tôi định đến chùa Chia-cu Tây xem 7 đứa trẻ, Cang-rư-sân-cơ và Na-rư, nhưng bây giờ tôi không đi nữa. Tôi phải đi đến thảo nguyên Tô-mi càng nhanh càng tốt. Tạm biệt Tạng Cha-xi nhé. Anh phải bảo trọng đấy, tốt hơn hết là đi thật xa, càng xa càng tốt. Trốn đi, đừng để người của bộ lạc bắt được.”

Tạng Cha-xi vội nói: “Anh đừng vội đi, Hán Cha-xi. Tôi còn 1 chuyện phải cho anh biết. Tôi nhìn thấy người tiễn ma Ta-chư rồi. Hắn ta ẩn mình ở núi tuyết Tan-xiang rất lâu, lâu lắm rồi. Ở đó hắn nung nấu quyết tâm đem lời thề độc phục thù. Chẳng ai biết được lời thề độc và ý nguyên đen tối của hắn có thể trở thành cái gì, chỉ biết hắn đang biến chúng thành hành động. Tôi sợ lắm, Hán Cha-xi, sự xuất hiện đột ngột của người tiễn ma Ta-chư tại thảo nguyên Chia-cu Tây không phải điềm tốt lành. Anh phải cẩn thận đề phòng hắn.”

Cha tôi nhảy lên lưng ngựa, cương quyết để lại sau lưng kẻ lang thang Tạng Cha-xi cùng đôi mắt đầy kỳ vọng. Ông quất ngựa phi theo hướng thảo nguyên Tô-mi, để lại sau lưng 7 8 con Ngao Tạng vẫn báo theo hộ tống ở tít tận xa.

Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao dẫn chúng bạn bám theo cha tôi. Chúng cứ thế bám theo đến tận Hiệp Lan Đạo, nhìn thấy thảo nguyên Tô-mi mênh mông bao la, những con sóng cỏ như sóng biển hết đợt này đến đợt khác mới chịu dừng lại. Đàn chó ngửi thấy mùi nước tiểu của chó lãnh địa thảo nguyên Tô-mi, chúng biết đã đến biên giới thảo nguyên lạ. Nếu tiến thêm nữa sẽ không phù hợp với tập quán hành vi của chúng. Những quy tắc từ cổ xưa tiềm ẩn trong ký ức chúng đã chế ngự chúng chặt chẽ, khiến chúng không thể quên chức trách chó lãnh địa của mình: giữ vững bảo vệ lãnh địa của mình, không xâm phạm lãnh địa của người khác. Trừ khi chủ nhân đưa chúng vào, cũng như 7 đứa trẻ Ama Thượng đem theo Cang-rư-sân-cơ đến thảo nguyên Chia-cu Tây. Còn cha tôi không phải chủ nhân của chúng, chẳng qua là người quen của chủ nhân, là khách của chủ nhân tại thảo nguyên Chia-cu Tây. Điều này những con Ngao Tạng với trách nhiệm chó lãnh địa và hổ đầu Tuyết Ngao với cương vị Ngao Vương hoàn toàn thấu hiểu.
 

ohcuey

Member
Xin lỗi chen ngang, tôi thấy truyện này viết như để phản bác lại Totem Sói vậy
Là do quan niệm của mỗi người khác nhau thôi bạn ạ. Tôtem sói ca ngợi cái tôi bất khuất, tự do, ngang tàng mạnh mẽ, không khuất phục, ca ngợi mưu trí, đôi khi có hơi tàn nhẫn, "tiểu nhân". Đó là để thức tỉnh những người có lối sống an phận, lối suy nghĩ theo số đông, ngại va chạm, không dám có những hành động suy nghĩ táo bạo, thoát khỏi lối mòn, dù có thể bị số đông áp đảo, tạo nên cái tôi của riêng mình. Ngoài ra cũng nói thêm về việc bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái.

Còn Chó Ngao Tây Tạng ca ngợi lòng trung thành, chính trực, vì nghĩa diệt thân. Đó là để chửi khéo những kẻ nham hiểm xảo quyệt, chuyên ném đá giấu tay, núp trong bóng tối dùng thủ đoạn hại người, hại dân, hại nước (đặc biệt là những quan chức).

Có thể ví "sói" trong Totem sói là 1 gã giang hồ lãng tử, ngang bướng, không chịu sự quản thúc của ai, không cần biết kẻ khác nhận xét mình là tốt hay xấu, tự dùng sức mạnh và mưu trí của mình để tung hoành giang hồ.

Còn "Ngao Tạng" trong Chó Ngao Tây Tạng là 1 vị tướng quân, lúc nào cũng hiên ngang dũng mãnh, trung thành, xả thân, coi trọng danh dự, nhưng vẫn phải chịu sự quản chế của pháp luật.

So sánh 2 hình tượng này đột nhiên lại nghĩ đến 2 nhân vật là Cẩm Mao Thử Bạch Ngọc Đường và Ngự Miêu Triển Chiêu trong Bao Công. Chuột là Sói, Mèo là Ngao Tạng ;;)
 

ohcuey

Member
Trên đường về, Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao không nói không rằng. Nó ngẫm nghĩ mãi lời của người đã trở thành kẻ lang thang – Tạng Cha-xi nói với cha tôi. Đương nhiên những lời đó nó không hiểu, nhưng có mấy từ nó quen: núi tuyết Ang-la, 7 đứa trẻ Ama Thượng, Cang-rư-sân-cơ. Những từ ngữ này nó từng nghe con người nhắc đến nhiều lần, hình thành trong đầu nó 1 hình ảnh cố định. Nó xâu chuỗi những hình ảnh đó lại và sắp xếp thành 1 lô-gic chính xác: Núi tuyết Ang-la – 7 đứa trẻ Ama Thượng – Cang-rư-sân-cơ. Nó không ngừng nhìn về núi tuyết Ang-la ở phương xa, nhìn những dãy núi chọc trời phủ đầy tuyết trắng trải dài vô tận. Những ngọn núi màu trắng uống lượn như dòng chảy của sông nước. Cái phương xa đó thật khó hiểu và huyền bí. Tất cả trở thành những cám dỗ đầy thù địch về Cang-rư-sân-cơ, kẻ mà Ngao Vương quyết tâm cắn 1 miếng cho chết kia, đang bình tĩnh đợi nó ở 1 góc nào đó của ngọn núi băng tuyết. Ngao Vương đi nhanh hơn. Theo sát Ngao Vương là con NGao đực xám già và Ngao đen Cô-rư. Chúng có vẻ đã đoán được ý nghĩ của Ngao Vương, phấn chấn hẳn lên, sủa liền mấy tiếng, hệt như dãy núi Ang-la và con Cang-rư-sân-cơ đang thực sự đứng trước mặt chúng vậy.

Hoàng hôn buông xuống, xa xa đã thấy núi vọng gác. Cả ngày Ngao Vương không có gì vào bụng bỗng thấy đói cồn cào. Nó dừng lại, nghểnh cái mũi rộng ra đánh hơi xung quanh. Lũ chó đứng sau cũng đi lên vây quanh nó ra sức ngửi. Sau đó chúng bàn với nhau. Chúng đã đánh hơi thấy mùi mèo rừng và gấu ngựa Tạng. Chúng bàn với nhau xem chén món nào là hợp khẩu vị nhất. Chúng không phát ra tiếng, chỉ dùng nét mặt biểu cảm và động tác thân thể để bàn bạc những vấn đề phức tạp.

Ngao đực xám già cho rằng khoái khẩu nhất là rái cá chó trên cạn. Chao ôi, thịt nó mới mềm vào béo ngậy làm sao, hơn nữa lại dễ bắt, chạy cả ngày mệt mỏi lắm rồi, hà tất phải hao tâm tổn sức vì miếng ăn. Ngao đen Cô-rư thích ăn nhất là mèo rừng. Thịt có của nhiều chất dinh dưỡng, máu của nó thật là ngọt nên rất hấp dẫn con Ngao cái vốn thích vị máu tanh tanh như pha mật. Những con Ngao Tạng khác con thì thích thịt chuột thỏ, con muốn ăn rái cá, chẳng ai thuyết phục được ai, đành nhìn dồn vào Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao.

Ngao Vương ngồi dưới đất với tư thế thật dễ chịu. Nó thè lưỡi ra liếm răng nhiều lần, ý nói: “Các ngươi không ai muốn ăn thịt gấu à? Nhưng ta lại muốn ăn.” Lời nói của Ngao Vương là quyết định cuối cùng, không ai phát biểu thêm ý kiến nữa. “Vâng, thì thịt gấu.” 1 con gấu có biết bao nhiêu là thịt, bao nhiêu là máu, tha hồ mà ăn uống no nê kễnh bụng. Chỉ có điều sẽ vất vả đấy. Xét cho cùng gấu vẫn là gấu. Ngoài bò rừng ra, trên thảo nguyên, trong các loài dã thú, khỏe nhất là gấu.

Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao đứng bật dậy, di nhanh về hướng nó cho rằng gấu ngựa Tạng đang ẩn náu. Mấy con khác cũng nhanh chân theo sau, không ai muốn tụt hậu trong hoàn cảnh này, vì sắp diễn ra cuộc đấu. Đối với Ngao Tạng, ăn uống là bản năng, tranh đấu là bản năng của bản năng. Vì sự trung thành với bản năng của bản năng, chúng thà không ăn không uống. Giờ đây, những con mồi dễ săn bắt trong mùa hè trên thảo nguyên đã bị chúng cha qua không thèm tính đến.

Không ngờ Ngao Vương và sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ lại gặp nhau ở đây. Trong khoảng khắc 4 mắt nhìn thẳng vào nhau, Ca-pao-sân-cơ tức giận suýt kêu lên: “Cớ gì anh can thiệp vào đời sống săn bắt của tôi? Con gấu ngựa này lẩn quẩn bên đàn cừu nhà tôi đã nhiều lần. Tôi rình nó rất lâu rồi. Nó là của tôi, thuộc về tôi, phải để tôi cắn chết nó.” Nhưng ngay lập tức Ca-pao-sân-cơ kiềm chế ngay sự tức giận của mình. Dẫu sao kẻ mà nó nhìn thấy là Ngao Vương đương nhiệm của thảo nguyên Chia-cu Tây, không được phép muốn nổi giận là nổi giận ngay, xúc phạm đến sự tôn nghiêm của Ngao Vương trước mặt những kẻ sùng bái. Đặc biệt là khi nó ý thức được tuy dã tâm của nó ngày càng lớn, nhưng thời cơ thay thế vị trí đó chưa đến, còn xa lắm, vì vậy càng không được để lộ bất kỳ sơ hở nào.

Sự tử trắng Ca-pao-sân-cơ cung kính vểnh đuôi lên hướng về Ngao Vương. Ngao Vương hài lòng cũng dùng đuôi đáp lại. Sau đó nó không rời mắt khỏi con gấu ngựa đang ở không xa. Con gấu ngựa cũng đã nhìn thấy đàn Ngao Tạng.

4 chân của Ca-pao-sân-cơ có tính đàn hồi thật tuyệt vời. Nó lăng xăng chạy đến đứng sát Ngao Vương. Ngao Vương liếc mắt nhìn, thấy vai của nó sát với vai mình, không còn phân trước sau nữa, lập tức cảm thấy không vui. “Hừm! Con Ngao Tạng nào dám cả gan có cử chỉ như vậy, đặc biệt trước mặt 1 địch thủ lớn mạnh?” Vị trí của bất kỳ 1 con Ngao Tạng nào cũng không được phép vượt quá mông của Ngao Vương, trừ khi Ngao Vương cho phép chúng đến gần. Ngao Vương nhăn nhăn chiếc mũi, báo cho sư tử trắng biết nó đang đứng ở vị trí khá nguy hiểm đấy, phải lùi ra đằng sau 1 chút. Sử tử trắng hơi ngỡ ngàng. Nó cũng ngạc nhiên: “Sao mình lại đứng ở cái chỗ không nên đứng này?” Nó thực sự không chú ý, nghĩa là trong sự vô tình này nó đã lộ ra dã tâm muốn bằng vai phải lứa với Ngao Vương. Nó hơi lo lắng, nhưng cũng không lùi xuống ngay. Hình như nó thấy đã lỡ sai rồi thì cho sai luôn, không cần thiết phải sửa nữa. Nó đứng nghênh ngang nhìn con gấu ngựa Tạng trước mặt, lại liếc nhìn Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao. Ngao Vương biết rồi sẽ có con Ngao Tạng khác ra tay cho kẻ hỗn láo này 1 bài học, bởi vậy nó không thèm đếm xỉa đến Ca-pao-sân-cơ, nhếch mép cười nhạt, lắc lư cái đầu to tướng tỏ vẻ không thèm chấp.

Quả nhiên 1 con Ngao Tạng từ sau xông lên, dùng vai húc mạnh 1 cái vào Ca-pao-sân-cơ. Đó chính là con Ngao đực xám già. Nó không thể ngờ trên thảo nguyên Chia-cu Tây này lại có con Ngao Tạng dám không kính trọng Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao. Nó phẫn nộ hơn cả Ngao Vương. Thấy cú húc đầu tiêng của mình vẫn chưa làm con Ngao Tạng hỗn xược kia đứng vào vị trí đáng đứng, lần thứ 2 nó lại xông lên, lần này nó xuất chiêu bằng nanh. Nó muốn kẻ trẻ người non dạ không biết lễ phép này phải nhớ đời tội vượt vị. Thay vì chảy máu, đối tượng mà nó định trừng phạt tuyệt nhiên không phải kẻ tầm thường. Con sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ – 1 kẻ dám cả gan đứng sánh vai với Ngao Vương, khinh miệt ra mặt con Ngao đực xám già.

Từ sức mạnh của cú hích đến từ đằng sau của Ngao đực xám già, sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ đã lường trước được đối phương hoàn toàn không phải đối thủ của nó. Con Ngao đực xám già lấy vai húc vào đối thủ chẳng khác gì húc vào tảng đá, kẻ bị thương của nó thể nó chính nó mà thôi. Cho nên khi con Ngao đực xám già lần thứ 2 vồ tới, sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ đã có hành động khiến tất cả Ngao Tạng đều ngạc nhiên, kể cả Ngao Vương. Nó nhảy lên nhanh như chớp qua đầu con Ngao đực xám già đang vồ tới. 4 vó vừa chạm đất, nó quay ngoắt lại, cắn vào đuôi con Ngao đực xám già kéo mạnh, khiến Ngao đực xám già suýt ngã. Con Ngao đực xám già hét lên 1 tiếng, quay người lại cắn. Sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ lại quay người nhảy lên như cơn gió, lần này là nhảy về phía trước, phía có kẻ địch chung là con gấu ngựa Tạng. Điều này xảy ra nhanh gọn, dứt khoát, không 1 động tác thừa. Mỗi 1 động tác gắn liền với nhau thật đúng lúc đặc biệt là 2 cú nhảy và 2 lần quay người. Có thể nói là 1 màn biểu diễn ngoạn mục. Ngao Vương thán phục vô cùng, trong bụng nghĩ: “Chả trách con Ca-pao-sân-cơ này kiêu căng, hóa ra nó cũng có những chiêu thế cao siêu như vậy.” Ngao Vương muốn kêu lên 1 tiếng tán thưởng, nhưng có 1 sức mạnh tiềm ẩn ngăn nó lại. Đó là sức mạnh gì, nó không biết, hoặc là tạm thời chưa biết. Nó thấy sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ đã vồ đến trước mặt con gấu ngựa Tạng nên vội vừa thét vừa chạy đến trợ uy.
 

ohcuey

Member
Đấy là 1 con gấu đực màu nâu. Phản ứng bản năng của con gấu đực màu nâu này khi nhìn thấy bầy Ngao Tạng là bỏ chạy, vì trên thảo nguyên, Ngao Tạng là động vật 4 chân duy nhất có thể giết chết gấu. Nhưng nó không còn đường chạy nữa. 1 con Ngao Tạng như sư tử trắng đã vồ đến chặn đường nó, mấy con Ngao khác bao vây tứ phía. Con gấu nâu thét lớn, nổi giận đùng đùng. Nó đứng thẳng lên, giơ tay tát 1 cái vào Ca-pao-sân-cơ. Nhưng Ca-pao-sân-cơ đã tránh được cái tát. Nó biết trọng lượng của cú tát này, dính vào thì đừng hòng đứng dậy được. Móng sắc như dao của gấu sẽ cấu xé nó nát thịt toét da, cú tát mạnh đến nỗi sẽ làm xương gãy gân bong. Con gấu đực thấy không tát được đối phương tức giận gào lên. Nó vồ đến như đá lở. Sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ lại nhảy ra thành công, tránh được cú vồ.

Nhưng tránh không phải mục đích của sư tử trắng khi đối thủ vồ nó. Mục đích của nó là phải thể hiện mình trước Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao và chúng bạn. Vì vậy nó phải tấn công, hơn nữa, hễ tấn công là phải chắc thắng. Nó chưa nắm bắt được thời cơ, vì con gấu đực cẩn thận bảo vệ phần bụng mềm dễ bị tổn thương, chỉ giơ 2 chân trước nặng như chùy ra tát trái tát phải, khiến Ca-pao-sân-cơ buộc phải đứng xa đối phương gần 1 mét. Thường ngày 1 mình đấu với gấu ngựa Tạng, hay cùng với bạn chăn cừu sư tử mới San-chia-sân-cơ và sư tử chim ưng Chi-ông-pao-sân-cơ đấu với gấu ngựa, nó không bao giờ sốt ruột bồn chồn khi chưa đến gần được địch thủ. Bởi đối chọi với gấu ngựa Tạng không phải là thi thố tốc độ mà là thi thố sức chịu đựng. Chỉ cần nó kiên trì vồ cắn, liên tục vồ cắn, trong khi gấu ngựa Tạng mãi không tát trúng đối phương sẽ dần dần nóng nảy bực bội. 1 khi đã nóng nảy bực bội, đấu pháp ắt không có bài bản, thể nào cũng lộ sơ hở. Lúc đó “vồ cắn” sẽ trở thành vồ cắn thật sự. Nhưng hiện giờ không thể làm như vậy. Không phải đọ nhau về sức chịu đựng mà là đọ về tốc độ, vì đối thủ của nó không phải con gấu ngựa Tạng mà là đồng loại của nó, là Ngao Vương xưa nay nó vẫn không phục.

Sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ nóng lòng chạy bên trái nhảy bên phải. Sự khiêu khích đó khiến cho gấu ngựa Tạng còn nóng lòng hơn. Nó cũng tát bên phải vồ bên trái. Cả 2 đối thủ đều đang lãng phí thời gian và sức lực. Ca-pao-sân-cơ vẫn không tìm được cơ hội dùng răng sắc như dao rạch bụng con gấu ngựa, lôi cả đống ruột ra. Còn gấu ngựa Tạng cũng chẳng có dịp nào tiếp cận được đối phương, dù chỉ để xé xuống 1 túm lông Ngao trắng như tuyết. 2 bên cứ vờn nhau như vậy 1 lúc lâu. Cuộc đấu dường như không quyết liệt nữa.

Ngao Vương và chúng bạn nó từ nãy giờ vẫn vây quanh gần con gấu ngựa Tạng, chúng nhìn nhau. Con Ngao đực xám già và Ngao đen Cô-rư không kiềm được nữa, định vồ vào phía sau con gấu ngựa, nhưng Ngao Vương gừ 1 tiếng ngăn cả 2 lại, rồi nhàn nhã ngồi vào cái đuôi to lớn của mình. Nó muốn xem bản lĩnh của sư tử tráng Ca-pao-sân-cơ nên không vội ra uy, vì đối với nó, đã là Ngao Vương thì không cần phải độc chiến cắn chết 1 con gấu ngựa Tạng để chứng minh cái gì cả, bởi vì nó đã 1 mình cắn chết rất nhiều gấu ngựa Tạng rồi.

Những đòn đánh của sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ trước con gấu dường như trở nên xơ cứng, đơn điệu, thậm chí không bằng những cú ra đòn của 1 con Ngao Tạng thường thường bậc trung. Thậm chí có mấy lần nó còn tỏ ra sự rụt rè mà loài Ngao không đáng có. 1 khi sách lược né tránh không tìm được cơ hội tấn công, thì bản thân việc né tránh sẽ trở thành mục đích. Mục đích này chỉ có thể tạo ra sự lúng túng, bất lực và tức tối.

Vẫn cứ tát rồi né tránh, dường như mãi mãi sẽ như vậy. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao đứng dậy. Nó nghĩ tác dụng của nó đương nhiên không phải chỉ đứng sau lưng con gấu đực đề phòng gấu quay người bỏ chạy. Anh không hạ thủ được thì hãy xem ta đây. Nó gầm lên 1 tiếng, bước những bước uy vũ đầy sức mạnh của Ngao Vương tiến về phía đối thủ. Theo suy nghĩ của Ngao Vương, nó tiến lên với bước đi uy nghiêm như vậy là muốn bảo sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ: “Hãy tránh ra, xem ta đấu với con gấu đây. Chỉ 1 khắc, tuyệt đối không quá 1 khắc đồng hồ, máu nóng của gấu sẽ thấm vào hàm răng lạnh buốt của ta. Đến lúc đó, ngươi cũng có thể đến uống mấy ngụm.” Nhưng điều khiến Ngao Vương thất vọng là ý tưởng của nó không thực hiện được. Chưa đợi nó đi đến, cục diện trận chiến bỗng có sự thay đổi.

Khi sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ lại 1 lần nữa xông vào vồ, con gấu đực to lớn cáu kỉnh lại 1 lần nữa đứng thẳng lên, dùng bàn tay nặng nề tát mạnh 1 cái. Ca-pao-sân-cơ lùi về với tốc độ cực nhanh. Nó không như những lần trước đợi đối thủ hạ 2 chân trước xuống rồi mới vồ cắn tiếp, cũng không như mấy lần trước sau khi lùi về đứng nhìn con gấu tát tiếp cái thứ 2, thứ 3, 4 chân nó bỗng nhảy mạnh 1 cái. Lần này nó dồn hết sức lực, như 1 mũi tên bắn ra, ánh chớp lạnh toát, cắm phập vào đích. Nó ngoạm sâu 1 miếng vào bụng con gấu. Chiều sâu của nanh cắm vào như con dao đủ để cắt phăng ruột nằm sâu bên trong. Con gấu đực tát mạnh 1 cái, tạo nên 1 luồng gió. Gió đến thì cái tát cũng đến, tát vào lưng Ca-pao-sân-cơ. Nhưng Ca-pao-sân-cơ đã uốn thân hình mềm mại của mình như dòng chảy của nước, song song với con gấu. Cái tát đáng sợ của gấu tát vào cái đuôi trắng như tuyết của Ca-pao-sân-cơ. Cái đuôi mềm mại và xốp như tuyết làm tan đi sức mạnh to lớn và sắc như dao của bàn tay gấu. Tiếp đó, sư tử trắng nhún người nhảy ra sau, rời xa con gấu. Ruột của con gấu bị răng nanh của nó móc ra rơi xuống đất, máu tươi phun từ bụng ra thấm ướt cả 1 mảng đất.

Con gấu đực gào thét, chống trả. Thân hình cao lớn như bóng núi của nó cứ đứng lên rồi bẹp xuống. Sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ tránh nó thật xa. Tất cả những con Ngao Tạng khác cũng tránh ra thật xa. Bọn chúng biết rõ lúc này không cần thiết lãng phí sức lực và tinh thần nữa. Chúng cứ nhìn trân trân con gấu, cho đến khi nó nằm xuống, hết gào thét và không bao giờ đứng dậy được nữa.

Sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ đắc chí đi đi lại lại mấy lần trước Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao và bạn của nó. Sau đó nó bước khệnh khạng hiên ngang đến trước con gấu đã chết. Ngao Vương nhìn nó không có biểu hiện gì. Bình thường, khi thấy con Ngao nào có những cú đánh ngoạn mục, lúc nào nó cũng lớn tiếng khen ngợi mấy câu. Nếu quan hệ tương đối gần gũi, nó sẽ đến gần chạm vào mũi biểu thị sự chúc mừng.

Sự im lặng của Ngao Vương tác động đến các bạn nó. Con Ngao đực xám già và Ngao đen Cô-rư cùng những con Ngao Tạng khác chỉ nhìn 1 cách lạnh lùng. Chúng thận trọng giữ 1 khoảng cách thân thể và tinh thần với sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao thấy không khí quá trầm lặng, liền mở rộng mũi, thè lưỡi bảo cho các bạn biết: “Đòn đánh của sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ cũng khá tốt, nhưng không phải là tốt nhất, vì thời gian co kéo quá dài. Những con Ngao Tạng giỏi, bất kể gặp đối thủ nào cũng phải kết thúc cuộc đấu trong vòng 20 phút.” Ngao đực xám già ngay lập tức liếm liếm mông Ngao Vương. Động tác này bày tỏ: “Đúng vậy, phải như ngài Ngao Vương vậy.” Ngao đen Cô-rư dùng động tác lắc đầu lay động lông trước trán để nói với mọi người: “Ca-pao-sân-cơ không bao giờ sánh được với Ngao Vương của chúng ta.”

Bảy tám con Ngao Tạng dẫn đầu là Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao cùng sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ xúm vào đánh chén con gấu đã bị cắn chết.

Theo thông lệ, nếu Ngao Vương có mặt, quả tim của con mồi lúc nào cũng phải dâng lên Ngao Vương. Quả tim bên trong đầy máu, là bộ phận thơm ngon nhất của con mồi. Ôi, ăn vào mồm, sao nó thơm ngon và ấm áp thế. Nhưng lần này là ngoại lệ, Ca-pao-sân-cơ tranh trước Ngao Vương, chỉ ngoạm 2 cái là nuốt quả tim vào bụng. Lũ bạn của Ngao Vương đang cắm đầu ăn uống không thấy, nhưng Ngao Vương đã thấy. Nó không khỏi ngạc nhiên. Ngoài mặt nó giả vờ khoang dung đại lượng không thèm chấp, say sưa vào sự sảng khoái của cuộc đánh chén. Thực ra trong lòng nó khó mà bình tĩnh. Sự bất mãn cực độ làm nó gần như coi thịt của con gấu là thịt của Ca-pao-sân-cơ. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao cho rằng những sự bất kính trước của Ca-pao-sân-cơ đều có thể cười xòa bỏ qua, nhưng lần này thì không thể, vì nó phát hiện thấy đối phương trước khi ăn quả tim đã liếc nhìn nó đầy hàm ý. Điều đó chứng tỏ đối phương cố tình làm vậy. Đây là sự khiêu khích đối với uy nghiêm của nó, chứ không phải chỉ là quên mất lễ nghi. Như vậy đối phương không chỉ ăn mất trái tim mà nó không được phép ăn, còn ăn mất cả sự tôn nghiêm của Ngao Vương. Tất cả Ngao Tạng nào cả gan dám miệt thị sự tôn nghiêm của Ngao Vương đều có 1 suy nghĩ là chúng thấy mình giỏi giang hơn Ngao Vương, về mặt dũng cảm và trí tuệ đều vượt qua, hoặc sắp vượt qua Ngao Vương. Đối mặt với những con Ngao Tạng tự cho mình là cao siêu, sự lựa chọn duy nhất của Ngao Vương là đánh bật cái thói huênh hoang, tiêu diệt dã tâm nhòm ngó ngôi vua của nó. Trừ khi Ngao Vương đã già rồi, già đến nỗi không coi tôn nghiêm và quyền lực là gì nữa.

Nhưng Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao không già chút nào. Nó đang ở cái tuổi hoàng kim, sức khỏe dồi dào, khí phách hiên ngang. Nó tuyệt đối không cho phép bất kỳ con Ngao Tạng nào đe dọa đến quyền lực và địa vị của nó. Nếu sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ cho rằng mình ghê gớm, bất chấp quyền lợi mà Ngao Vương được hưởng là trái tim của con mồi, thì cái mà nó nhận được sẽ là sự trừng phạt nghiêm khắc mà Ngao Vương dành cho.

Đúng vậy, việc trừng phạt Ca-pao-sân-cơ là việc sớm muộn, nhưng không phải lúc này. Ngao Vương nhận thấy hiện tại việc tối quan trọng vẫn là giải quyết sư tử núi tuyết Cang-rư-sân-cơ. Nó phải ăn no bụng. Theo thong tin nó nhận được trong lời nói của Tạng Cha-xi, nó phải đi vào trong núi tuyết Ang-la, tìm cho ra Cang-rư-sân-cơ và 7 đứa trẻ Ama Thượng. Nó trước sau đều cho rằng, Cang-rư-sân-cơ, kẻ thù đồng loại mà nó quyết tâm cắn 1 miếng cho chết đang bình tĩnh đợi nó ở 1 góc nào đó của núi tuyết.

Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao dẫn theo chúng bạn rời nhanh nơi đánh chén. Sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ dùng tiếng sủa vui nhộn tiễn biệt chúng. Ngao Vương ngẩn đầu ưỡn ngực, không chút biểu hiện để ý đến. Mấy đứa bạn nó cũng áp dụng thái độ phớt lờ Ca-pao-sân-cơ. Sư tử trắng biết, nó đã hoàn toàn làm mất lòng Ngao Vương rồi.
 

ohcuey

Member
Cả nhà già Ni-ma sắp phải dời đi nơi khác. Đó là ý của tù trưởng Xua-lang-uang-tuôi. Tù trưởng bảo họ: “Năm nay mưa xuân nhiều, cỏ mùa hè sẽ tươi tốt. Mặt đất dưới chân núi tuyết đã xanh tươi rồi. Các người hãy đi chăn gia súc dưới chân núi xa kia, để cỏ trên thảo nguyên 2 bờ sông Dã-la mọc cao, để dành cho mùa đông, dành cho cả năm sau. Năm sau cỏ sẽ không tốt bằng năm nay. Phật sống Tan-Trân đã nói: “Cỏ thảo nguyên năm nay thịnh, sang năm tất sẽ suy.””

Đương nhiên Mây-tô-la-mu không thể đi theo họ được. Cô phải dọn đến 1 nhà khác tá túc. Phút chia tay thật quyến luyến bịn rịn. Cô chào từ biệt già Ni-ma và 2 vợ chồng Pan-chi-ô và La-trân, rồi ôm ghì lấy bé Nua-pu hôn đến đỏ cả mặt thằng bé. Sau cô đến từ biệt mấy con Ngao Tạng. Những chú cún con không biết gì vẫn vô tư nghịch ngợm chạy nhảy tung tăng, không chút ảnh hưởng bởi tình cảm của các bậc cha chú. Các cha chú của chúng, 3 con chó chăn cừu và 2 con chó trông nhà đều biết chuyện phải di cư. Di cư đồng nghĩa với chia tay, chia tay cánh đồng thảo nguyên và sông Dã-la quen thuộc bấy lâu, chia tay người và chó mà chúng bịn rịn không muốn rời. Sáng hôm nay, người mà chúng chia tay rõ ràng là cô gái người Hán Mây-tô-la-mu, vì hành lý của cô đang để cạnh chân. 5 con Ngao Tạng lớn nhìn Mây-tô-la-mu với con mắt u buồn, đuôi vẫy chầm chậm nặng nề. Mây-tô-la-mu vuốt lông cho con này, phủi bụi cho con kia. Đôi mắt xinh đẹp của cô báo cho chúng biết: Đây là lần cuối cùng, ít ra là mùa hè và mùa thu năm nay, cô vuốt lông phủi bụi cho chúng. Đương nhiên cô vẫn quyến luyến nhất con Ca-pao-sân-cơ. Cô vuốt lông nó từ đầu đến đuôi, bỗng cô òa khóc, nước mắt rơi lã chã. Ca-pao-sân-cơ nằm yên trong lòng cô, liếm tay liếm đùi cô, mắt nó cũng đỏ ngầu ươn ướt.

Cuối cùng cô đến từ biệt 3 con cún. Cô gọi: “Ca-ca, Cơ-san, Pu-mu, các em ra đây nào, để chị bế 1 lần cuối. Lần sau các em quay lại, chị không bế nổi các em nữa đâu, vì các em đã trưởng thành, trở thành Ngao Tạng lớn rồi. Lúc đó các em còn nhớ chị không nào?” Cơ-san và Pu-mu chạy đến bên cô. Cún trắng Ca-ca không chịu chạy lại, bà mẹ thọt và ông bố phải lấy mũi kích nó đến gần cô. Mây-tô-la-mu ngồi xuống ôm cả 3 con cún vào lòng, cho chúng thay nhau cắn yêu tay cô. Chúng giả vờ cắn mạnh, nhưng cũng như thường ngày không làm cô đau.

Con bò lông Tạng gùi trên lưng nhà bạt đã xuất phát. Pan-chi-ô dẫn đường đã cưỡi ngựa đi từ lâu. Đàn dê cừu cũng bắt đầu lên đường. 3 con chó chăn cừu sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ, sư tử mới San-chia-sân-cơ và sư tử chim ưng Chi-ông-pao-sân-cơ đầy trách nhiệm với cương vị của mình, vẫy đuôi lần cuối với Mây-tô-la-mu rồi quả quyết quay người đi theo bảo vệ đàn gia súc. Cô biết đã đến lúc chia tay 3 con cún rồi, nhưng vẫn bịn rịn không nỡ bỏ tay ra. Cô cảm thấy hễ thả tay ra thì không còn gì nữa, không còn cả tình người nghĩa chó.

Già Ni-ma đứng trước mặt cô nói 1 câu gì đó. La-trân cũng nói 1 câu tương tự, nhưng cô gái người Hán nghe không hiểu. La-trân hẩy hẩy tay nói với chó mẹ thọt chân và chó trông nhà Sư-mao: “Thôi, ta đi mau, sợ đuổi không kịp mọi người nữa.” Đợi cho 2 con chó vừa đi khỏi, La-trân bế con cún đen từ trong lòng đưa cho già Ni-ma, rồi tự mình bế con cún đen khác rồi nói: “Tạm biệt cô gái.” Câu này thì Mây-tô-la-mu hiểu. Cô đứng dậy đưa con cún trắng Ca-ca trả cho La-trân, nhưng La-Trân lắc đầu, rồi lấy từ trong người ra 1 chiếc khăn tay bằng da cừu đã thuộc, che kín đầu Ca-ca. Lúc này Mây-tô-la-mu mới hiểu ý của già Ni-ma và La-trân: “Cô thích chó của chúng tôi như vậy thì cứ giữ lấy 1 con mà nuôi đi.” Cô ngớ ra, không biết mình có nên nhận món quà này không. Già Ni-ma cười cười, La-trân cũng cười cười rồi lên đường. Mây-tô-la-mu bình tâm lại, cô xúc động nói: “Cảm ơn, cảm ơn.” Và lại nói 1 câu: “Nhưng cháu không thể lấy.” Nhưng lúc đó mọi người đã đi xa, không còn nghe thấy gì nữa.

Sao lại không lấy nhỉ? Quả là bất lịch sự khi từ chối quà của người khác, hơn nữa lại là 1 món quà đáng yêu biết bao. Lúc này Mây-tô-la-mu hoàn toàn chưa nghĩ đến cún trắng Ca-ca bỗng nhiên phải xa lìa bố mẹ, an hem sẽ cảm thấy ra sao. Đầu cún trắng Ca-ca bị chiếc khăn da cừu trùm kín. Nó không ý thức được có điều gì bất thường. Trong bong tối nó vẫn nằm trong lòng Mây-tô-la-mu ấm áp, vắn cắn yêu và liếm tay cô.

Mắt Kính Lý Ni-ma đã đến. Anh ta đến giúp Mây-tô-la-mu dọn nhà. Nhà mới của cô là gian nhà bạt của Cung-pu, hàng xóm già Ni-ma. Đáng ra cả nhà anh cũng phải theo sự sắp xếp của tù trưởng đến chân núi xa chăn thả gia súc. Nhưng 2 hôm trước 1 con Ngao Tạng chăn cừu dũng mãnh của nhà Cung-pu đã bị 5 con báo tuyết cắn chết ăn thịt rồi. Còn 1 con Ngao Tạng chăn cừu khác cũng bị báo tuyết xé thủng bụng, đang hấp hối. Chân núi xa kia có cơ man nào là thú dữ, chỉ dựa vào 2 con chó trông nhà là không ổn, nên tù trưởng nói: “Thôi vậy, trước mắt quan trọng nhất là nhà Cung-pu hãy chọn mấy con chó nhỏ trong đàn chó lãnh địa, mau cho chúng ăn những miếng thịt bò dê ngon nhất để chúng chóng lớn. Nếu khồng đàn gia súc của ngươi ngay cả thảo nguyên bên kia bờ sông Dã-la cũng không dám đến nữa.”

Mây-tô-la-mu và Lý Ni-ma đển cửa nhà Cung-pu. 2 con chó trông nhà cảnh giác sủa ầm ĩ. Cung-pu cùng vợ và 2 con gái vội ra đón khách vào nhà bạt. 2 cô con gái của Cung-pu thường xuyên sang chơi nhà già Ni-ma, nên đã thân quen từ lâu với cô gái người Hán Mây-tô-la-mu. Cả 2 cười nói vui vẻ đón hành lý từ tay Lý Ni-ma để ở góc nhà. 1 cô kéo Mây-tô-la-mu đến ngồi thảm bên trái, vừa nói vừa ra hiệu. Còn cô kia giúp mẹ bưng nước chè ra mời Lý Ni-ma rồi mời Mây-tô-la-mu.

Cún trắng Ca-ca hất chiếc khăn tay che đầu nó ra rồi nhảy ra khỏi lòng Mây-tô-la-mu. Nó nhìn xung quanh rồi không do dự chạy ra ngoài cửa tìm anh trai và em gái nó chơi. Ra rồi nó mới phát hiện không thấy bong dáng anh em nó đâu, cũng chẳng thấy bố mẹ đâu nữa. Chỉ thấy 2 con chó trông nhà Cung-pu mà thường ngày nó vẫn gọi là chú thím. Chú thím đến gần ngửi ngửi nó 1 cách thân thiện. Nó bắt chược những con chó lớn lắc đầu tỏ vẻ bực bội, quay người đi. Ca-ca không muốn chú ý tới chú thím. Trong ấn tượng của nó, chú thím lúc nào cũng nghiêm nghị, chơi với chú thím chẳng vui chút nào. Nó sủa gâu gâu bằng cái giọng trẻ con, hy vọng sẽ nghe thấy tiếng đáp lại của bố mẹ, an hem. Nhưng nó không nghe thấy gì. Ngọn gió thổi phù phù không đưa lại tiếng đáp của ai. Nó bắt đầu chạy vòng quanh nhà Cung-pu 2 lần, phán đoán chắc người thân của mình không phải đang chơi trò ú tim với nó. Thế là Ca-ca chạy thẳng về nhà già Ni-ma.

Chẳng còn gì ở đó nữa. Trên đất không có nhà bạt thì nó đã biết rồi, nhà bạt đã “chạy” lên lưng con bò lông rồi. “Thế con bò lông đâu? Nó chạy đi đâu rồi? Chủ nhân và đàn cừu đi đâu hết rồi? Anh em, bố mẹ, cả các bác Ngao Tạng khác đi đâu hết cả rồi?” Nọ gọi họ, nó nhảy lên bếp lò, ngẩng đầu nhìn về phương xa. Phương xa bao la kia chỉ là ẩn số đối với nó, nó chưa đến đó bao giờ. Nó nhớ có 1 hôm nó cùng anh trai và em gái định đi đến đó, xem “phương xa” - ẩn số mà chúng muốn biết là gì. Còn chưa đi đến nơi có con sông đang chảy thì đã nghe tiếng quát của bà mẹ thọt: “Về! Về ngay!” Chúng không nghe, cứ tiếp tục đi. Thế là mẹ nhờ dì Sư-mao chạy như bay đến. Dì lấy chân trước đánh ngã anh trai, lấy mũi húc ngã em gái, rồi cắp lấy Ca-ca lôi về nhà bạt, giao cho mẹ. Mẹ quát tháo ầm ĩ, suýt nữa còn lấy răng nanh chọc vào mông nó. Từ đó nó biết, cún con không bao giờ được phép vì sự cám dỗ của “phương xa” mà rời khỏi các cô bác cha chú, rời khỏi nhà bạt của chủ nhân.

Nhưng bây giờ, ôi, người và chó đã đi đến phương xa, vứt nó lại 1 mình. Phương xa có cái gì? Sao bố mẹ cô bác lại vứt nó lại? Nó khóc u…u…, nước mắt chảy lã chã làm đôi mắt nhòe đi không nhìn thấy gì nữa. Ca-ca quên bẵng là mình đang đứng trên bếp lò, nó ngồi phịch xuống, không ngờ ngã xuống đất lăn quay mấy vòng. Nó rên rĩ như trẻ con làm nũng. Bỗng nó ngửi thấy 1 thứ mùi nồng nặc là lạ. Người nó chạm vào 1 cái móng đầy lông lá. Nó vội nhổm dậy, vẩy mạnh nước mắt để nhìn cho rõ, thấy trước mặt là 3 con vật trông như chó nhưng tuyệt nhiên không phải chó. Nó sững lại rồi sợ hãi kêu lên 1 tiếng, bộ lông trắng dựng đứng cả lên.

Sói! Cúng trắng Ca-ca biết đó là sói. Tuy lần đầu nó nhìn thấy sói, nhưng ký ức và tiềm thức di truyền của ông ca bao đời để lại khiến nó sinh ra đã nhận biết được mùi của sói. Nó sủa lên 1 tiếng với giọng trẻ con, 4 chân cố dồn sức vào sau, làm động tác như sắp vồ vào đối phương. Là thế hệ sau mang dòng máu Ngao Tạng, tuy cùn trắng còn bé, bé đến nỗi không đủ cho 3 con sói ăn 1 bữa; thêm nữa nó cũng đang rất sợ, sợ đến nỗi cái đuôi cũng trở nên xơ cứng, nhưng nó không biết cái gì gọi là chạy trốn, là cầu xin, vì trong xương cốt bé bỏng của nó không chứa đựng sự nhu nhược yếu đuối trước sói. Nhìn thấy sói là thuộc tính vồ cắn của nó với địch thủ đã được kích thích.

3 con sói nhìn điệu bộ của nó cảm thấy rất buồn cười. Chúng vừa nhỏ dãi vừa sử dụng chút thời gian và lòng kiên nhẫn ít ỏi để thưởng thức cái bộ dạng buồn cười của cún trắng. Nhưng cũng chỉ trong 1 chút thời gian đó, con sói cái đứng đằng sau đã suy nghĩ ra 1 chuyện. Khi nó thấy ông chồng sói dùng chân trước ấn mạnh cún trắng xuống định cắn thì nhanh như chớp nó nhảy xổ đến dùng vai hất ông chồng ra, há mõm ngoạm luôn cún trắng, nhưng sức ngoạm vừa phải như lúc nó tha đứa con của mình, không làm cún trắng bị thương và đau, cũng không để nó rơi xuống đất. Cứ thế sói cái chạy về phía trước. Chồng nó và con sói đực kia chạy đuổi theo sau muốn cướp lại miếng mồi trong mõm nó. Nó gầm lên trầm trầm từ lồng ngực ngăn 2 con sói đực ngoài 1 mét. Tiếp theo nó kiên quyết không cho 2 con đực đến gần, vừa nhìn 2 con sói đực cảnh giác, vừa chọn con đường ngắn nhất chạy về hướng núi tuyết Ang-la.

Bỗng từ lùm cây bụi thảo nguyên giáp với núi tuyết, thằng bé cởi trần Pa-ơ-chiu-chu nhảy ra, nhìn thấy con sói tha cún trắng, nó kêu lên 1 tiếng: “Sói tuyết!”

3 con sói tuyết tăng tốc. Sói tuyết là 1 trong những loại sói hoang. Chúng có lớp lông dày nên rất sợ nóng. Chúng thường sống trên núi tuyết nơi giá lạnh. Chúng cũng giống những con thú như thỏ tuyết, chuột tuyết hay cáo tuyết, có bộ lông trắng để ngụy trang. Màu lông và hành tung bí ẩn của chúng khiến chúng trở nên vô cùng bí hiểm. Ngay như gấu ngựa Tạng và báo tuyết được coi là bá vương trên tuyết cũng không dễ gì sát hại được chúng. Chúng nổi tiếng về mặt xào quyệt, nham hiểm trên thảo nguyên. Dân chăn gia súc muốn hình dung 1 người không thật thà, thường nói hắn nham hiểm như sói tuyết. Loại sói tuyết rất ít khi cắn xé vật lộn để săn giết con mồi. Chúng thường chọn đúng lúc không có hiểm nguy nhất, nhưng lại dễ no bụng nhất để xuất hiện. Cũng như ây giờ, khi thấy người chăn gia súc vừa dọn đi, trên nền nhà cũ sẽ sót lại nhiều thứ. Chúng đến sớm hơn cả những con quạ để xem có kiếm được chút thịt thừa, xương hoặc miếng da nào không. Chúng sướng phát điên khi thấy 1 con cún trắng ngây thơ dại dột chẳng biết tí gì tự nhiên xuất hiện trước mặt chúng. Đó quả là món ăn tươi sống khoái khẩu biết chừng nào, làm chúng them rỏ dãi. Nhưng sói cái lại nuốt nước bọt vào bụng, vì 1 lý do mà tạm thời chưa ai biết. Rất nhanh nó từ 1 kẻ săn mồi biến thành kẻ bảo vệ con mồi.
 

ohcuey

Member
Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao dẫn chúng bạn mai phục sau 1 gò tuyết từ lâu. Lúc nãy nó thò đầu ra, dùng ánh mắt mênh mang như sương mù nhìn 3 con sói tuyết. Con Ngao đực xám già và Ngao đen Cô-rư đứng bên cạnh nó tỏ ra bồn chồn lắm rồi, chỉ chực nhảy xổ ra vồ 3 con sói tuyết. Ngao Vương dùng ánh mắt sắc lạnh và nghiêm nghị, cộng với động tác lấy chân trước đào bới tuyết trước mặt để ngăn chúng lại, vì Ngao Vương thấy 1 con sói cái mồm ngậm 1 chú cún trắng đang chạy trước, 2 con sói đực chạy theo sau. Ngao Vương nở cái mũi rộng và dày, cái mũi chỉ có Ngao Vương mới có, ra sức đánh hơi. Nó đánh hơi thấy chú cún trắng có mùi của Ngao Tạng, mùi y hệt sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ. Ngao Vương ý thức ngay được nó là cún trắng của già Ni-ma, mẹ nó là con Ngao thọt, cha nó là sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ.

Sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ, hễ nghĩ đến cái tên này là tim của Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao lại thắt lại. “Hừm! Ca-pao-sân-cơ, mày giỏi thật, ngay đứa con của mình mà cũng không bảo vệ nổi, nói gì đến bảo vệ đàn dê đàn cừu.” Ngao Vương án binh bất động, không xuất kích. Ngao Vương bình thường hễ thấy sói là xuất kích ngay, duy có lần này là không. Nó không thực thi chức trách của 1 Ngao Tạng, cứ để mặc 3 con sói tuyết ngoạm chú cún trắng nhanh chóng chạy qua dưới mắt mình. Trong đáy sâu tâm khảm nó, tiếng nói khuyên răn về trách nhiệm và bổn phận của 1 con Ngao Tạng biến mất tăm lúc nào không rõ. Giờ tiếng nói duy nhất nó nghe lọt tai là trên toàn lãnh thổ Chia-cu Tây này, chỉ có sư tử trắng Ca-pao-sân-cơ dám cả gan khiêu khích quyền lực của nó, coi thường miệt thị sự tồn tại của nó. Nó đã có quyết định trừng phạt Ca-pao-sân-cơ rồi. Giờ khắc trừng phạt kẻ ngạo nghễ kia đã đến. Sự đau khổ khi bị hàm răng sắc nhọn cắm phập vào da thịt và sự đau khổ khi mất đi đứa con cũng như nhau cả thôi. Trừng phạt kiểu trước thể hiện dũng khí, kiểu sau thể hiện trí tuệ của nó. Bất luận dũng khí hay trí tuệ đều là thứ Ngao Vương không thể thiếu.

Đang lúc Ngao Vương nghĩ như vậy, 3 con sói tuyết đã cao chạy xa bay rồi. Dãy núi tuyết trùng trùng điệp điệp đã che chắn bong dáng nhanh nhẹn của chúng. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao tức giận gầm lên 1 tiếng, ý là: “Cứ coi như bọn bây mạng lớn. Chẳng sớm thì muộn tao sẽ nuốt chửng bọn bây.” Các chiến hữu nhìn Ngao Vương, có con tỏ ra hiểu, có con vẫn không hiểu. Nhưng dù hiểu hay không chúng đều bày tỏ sự phục tùng tuyệt đối với Ngao Vương. Ngao Vương nhảy lên gò tuyết, nhìn về bóng núi phủ 1 màu trắng, không hề do dự kiên quyết đi về phía đó. Không tìm thấy mục tiêu quyết không xuống núi.

Đã 10 ngày rồi, ngày nào Ngao Vương và chúng bạn cũng lục lọi trong dãy núi Ang-la, tìm kiếm những kẻ xâm phạm đáng ghét. Cang-rư-sân-cơ và 7 đứa trẻ Ama Thượng đang trốn ở đâu? Mới đầu những thông tin về kẻ xâm nhập đều đến với chúng, vì hơi của Cang-rư-sân-cơ vẫn lảng vảng trong không khí, trên mặt đất phủ tuyết cũng có hơi của 7 đứa trẻ Ama Thượng. Ngao Vương thông minh biết trên mặt đất không có hơi của Cang-rư-sân-cơ vì có người cõng nó vào núi tuyết. Nó còn biết người và chó đi cùng với nhau, chỉ cần đánh hơi trên mặt đất phủ tuyết là sẽ tìm thấy 7 đứa trẻ Ama Thượng, ắt cũng sẽ tìm thấy Cang-rư-sân-cơ. Nhưng mấy ngày sau, gió thổi bay đi hơi của Cang-rư-sân-cơ, tuyết phủ mất hơi của bọn trẻ. Khi không đánh hơi được nữa, chúng bắt đầu lùng sục tìm kiếm từng thung lũng một. Chúng không tìm thấy được cái mà chúng định tìm, nhưng liền 2 ngày chúng đã đụng đầu với 2 con gấu ngựa Tạng, coi như có được bữa tối đánh chén no bụng. Sau đó chúng lại gặp 3 con báo tuyết, khiến chúng có bữa trưa ngon lành. Lại 1 lần chúng bao vây tấn công giết chết 1 con bò rừng khỏe mạnh tráng kiện. Khi con bò rừng ngã uỳnh xuống, tiếng chấn động khiến cho núi tuyết lở rơi ầm ầm. Chúng vội 3 chân 4 cẳng chạy thật nhanh. Phút chốc xác con bò đã bị vùi dưới đống tuyết. Lỡ mất 1 bữa thịt bò rừng, chúng định săn thịt sói tuyết. Thịt sói tuyết gây gây hôi hôi, Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao và các bạn nó thích nhất sói tuyết chính là nhờ cái mùi gây gây đó.

Nhưng hôm nay chúng đã để xổng mất 3 con sói tuyết đáng lý ra không nên để xổng. Chúng đành nhịn đói đi về ngọn núi tuyết cao àm chúng chưa đặt chân đến bao giờ. Chúng sử dụng đôi mắt tinh khôn sắc sảo, đôi tai thính và chiếc mũi tinh tiếp tục tìm kiếm trong băng tuyết, tìm kiếm kẻ thù của Ngao Tạng thảo nguyên Chia-cu Tây, Cang-rư-sân-cơ và kẻ thù của người Chia-cu Tây, 7 đứa trẻ Ama Thượng, đồng thời cũng săn lùng những con thú để ăn. Chúng thích ăn thịt động vật ăn thịt, đặc biệt là những con thú hung dữ. Chúng không bao giờ ăn những con thú yếu đuối hiền lành như dê cừu, linh dương. Ngay cả la rừng, lạc đà rừng chúng cũng không ăn. Nai, hươu mồm trắng, hươu sao, hươu xạ lại càng không ăn. Đôi lúc đói quá chúng đành ăn thỏ rừng, nhưng không phải thường xuyên, và không ăn nó đến kễnh bụng. Chúng luôn để mình ở trạng thái đói. Sự vận động mạnh mẽ khi tìm kiếm thức ăn khiến nhu động ruột và dạ dày càng tăng. Nhu động ruột và dạ dày tăng khiến chúng có cảm giác đói cồn cào. Cảm giác đói cồn cào đó khơi dậy dũng khí và thói quen khiêu chiến các loài dã thú của chúng. Có lẽ vì thói quen thích ăn thịt những con mãnh thú, khiến chúng trở thành loài dã thú có thể ăn hết các dã thú khác trên thảo nguyên. Hay nói cách khác, tất cả những con dã thú đều thích con những con vật nhỏ bé yếu đuối hơn mình để làm đối tượng săn bắt, riêng Ngao Tạng luôn thích ăn thịt những sát thủ hung dữ độc ác hơn mình, ăn những động vật ăn thịt mạnh mẽ hơn mình. Thế là loài Ngao Tạng trở thành sát thủ số 1, kẻ say máu số 1 không ai địch nổi trên thảo nguyên.

Ngày hôm đó, Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao và các bạn nó vẫn chưa lần ra tung tích của Cang-rư-sân-cơ và 7 đứa trẻ Ama Thượng. Chúng chỉ săn được 1 đôi mèo rừng. Đương nhiên chúng dễ dàng bắt được ngay, cắn chết rồi cùng đánh chén. Sau đó chúng lùng được 1 con cáo tuyết. Tất nhiên cũng bắt được ngay, cắn chết rồi ăn thịt. Khi màn đếm buông xuống, chúng vẫn còn lùng sục tìm kiếm. So với con người, chúng không biết thế nào là nhụt chí. Chúng cũng chẳng có khái niệm rõ ràng về thời gian, đã tìm kiếm bao nhiêu ngày? Còn phải tìm bao lâu nữa?... Tất tật những câu hỏi đó không tồn tại với chúng. Chỉ cần chưa tìm được thì vẫn phải tiếp tục tìm, tìm đến bao giờ thấy mới thôi.
 

ohcuey

Member
Trong khi Mây-tô-la-mu và Lý Ni-ma đang tìm kiếm cún trắng Ca-ca trên đồng cỏ, thằng bé cởi trần Pa-ơ-chiu-chu vẫn nấp ở rừng cây bụi giáp với thảo nguyên và núi tuyết Ang-la. Phía sau bụi cây rừng có mấy cái nhà bạt trên vẽ bức họa bát bảo cát tường với các màu sắc trang trí. Đây là nơi nghỉ mát của cả nhà tù trưởng Xuê-lang-uang-tuôi bộ lạc sông Dã-la. Con trai tù trưởng và các cô hầu thường cùng nhau múa hát tại đây. Khi múa hát họ có đi ủng, không hát múa nữa thì cởi ủng ra. Lúc không đi ủng, áo mũ giày ủng đều vứt bừa trên cỏ. Pa-ơ-chiu-chu khe khẽ mò đến lấy 1 đôi họ cũng chẳng biết. Bọn họ lúc đó như đống củi khô mùa hè rực cháy, làm gì có thời gian chú ý nhìn trước ngó sau. Nhưng không hiểu sao hôm nay bọn họ hát hò nhảy múa lâu thế. Hát mệt rồi họ ăn uống, ăn uống xong lại hát. Cứ như họ biết Pa-ơ-chiu-chu đang dán mắt vào mấy đôi ủng vậy. Mặc cho cậu bé mong thế nào, họ cũng không chịu cởi ủng vất xuống đất. Vì vậy Pa-ơ-chiu-chu vẫn chưa rời bụi cây rừng được. Tuy nó đã thấy Mây-tô-la-mu và Lý Ni-ma đang đi tìm trên đồng cỏ, gọi mãi tên cún trắng Ca-ca, nhưng nó không thể đến báo cho 2 người biết cảnh nó nhìn thấy vừa rồi: 1 con sói tuyết cái mồm ngoạm cún trắng và 2 con sói đực đuổi theo sau chạy và núi tuyết Ang-la rồi.

Pa-ơ-chiu-chu nghĩ bụng: “Nàng tiên Mây-tô-la-mu đã nói rồi, “cháu phải đi giày ủng vào.” Nhưng mình chưa có ủng, làm sao có thể đến trước mặt Mây-tô-la-mu được. Nhưng không lâu nữa đâu, ta sắp có giày ủng rồi.”

“Ca-ca! Ca-ca!” Trên đồng cỏ cách núi nhà vọng gác không xa, Mây-tô-la-mu và Lý Ni-ma đi quanh nhà Cung-pu gọi cún trắng Ca-ca khản cả giọng. Bên cạnh là sông Dã-la trong xanh lặng lẽ chảy về phương xa. Xa xa là dãy núi tuyết băng giá uốn khúc lượn lờ. Dưới núi tuyết thảm cỏ màu xanh nhạt nối liền với bụi cây ống màu đen. Bụi cây từng khóm từng khóm một, vượt qua sự bao vây của rừng thong dưới chân núi, như dòng nước chảy lan tỏa trên thảo nguyên.

“Ca-ca! Ca-ca!” Tiếng gọi của 2 người theo ngọn gió bay trên thảo nguyên, như hòn đá ném xuống sông Dã-la vang lên tiếng nhạc. Những con cá rỗ, cá vàng, cá đầu chó trong vịnh sông nghe thấy vừa hiếu kỳ vừa hoảng hốt, nhảy lên trên mặt nước phát ra những tiếng “bù bụp”.

Lý Ni-ma bất giác nắm lấy tay Mây-tô-la-mu, miệng tuy vẫn gọi Ca-ca, nhưng tâm trí đã không còn nhớ con cún trắng chẳng liên quan gì đến mình nữa. Lý Ni-ma chẳng mong cún trắng nghe được tiếng gọi, nhảy ra từ 1 bụi cỏ hay 1 cái hang chuột nào. “Cứ gọi như vậy mãi thật hay biết bao, 2 người tay trong tay vừa đi vừa gọi. Nếu thấy sói mình ôm chầm lấy nàng vào lòng. Sói đi khỏi mình bỏ nàng ra. Nhưng không, tội gì mà bỏ. Tìm kiếm Ca-ca là 1 dịp để cùng đi với nàng. Ôi, dịp may hiếm có này mình không thể bỏ lỡ. Mình sẽ lại kéo tay nàng, rồi kéo người nàng sát lại gần, hôn mặt, hôn lên mắt, hôn vào đôi môi ấm áp của nàng. Hôn nồng nàn thắm thiết, mình phải cố gắng để nàng hiểu điều mình khao khát không chỉ là đôi môi. Nhưng nàng không muốn hiểu điều đó. Theo bản năng nàng cứ lẩn tránh mình. Vừa tránh thì nàng đã ngã ngửa ra bãi cỏ.

Lý Ni-ma đang tưởng tượng lung tung, bỗng anh ta giang tay định ôm lấy Mây-tô-la-mu. Nhưng cô dường như đã đề phòng sẵn, đẩy mạnh anh ta ra: “Anh muốn gì? Mau tìm Ca-ca đi! Ca-ca…” Cô gọi giật giọng và đi thẳng về phía trước. Lý Ni-ma cụt hứng vội chạy theo sau, gọi Ca-ca 1 cách khô khan.
2 người tìm kiếm xung quanh bãi cỏ nhà Cung-pu không sót nơi nào. Ca-ca chắc chạy đi xa hơn rồi. Càng đi xa mối nguy hiểm càng lớn, Mây-tô-la-mu không dám đến đó. Ở đó cô đã từng gặp báo kim tiền, cả sói hoang nữa. Cô như con chim sợ cành cong, đặc biệt khi không có con Ngao Tạng nào theo cùng. Cô chỉ dám tìm quanh đây. Cô nhìn về phương xa, nơi đó là đồng cỏ mênh mông, bỗng khóc thút thít. Cô cảm thấy Ca-ca đã chết, nó đã bị báo hoặc sói ăn thịt rồi.

Lý Ni-ma lại an ủi cô. Anh không dùng lời lẽ mà dùng tay lau nước mắt cho cô. Đang lau, anh không kìm được, tay tuột xuống ngực cô. Mây-tô-la-mu đẩy anh tar a, giận dữ nói: “Anh đi đi, đừng theo tôi.” Có lẽ vì nước mắt của cô gái xinh đẹp đá kích thích Lý Ni-ma, hay vì thịt bò thịt cừu và bánh bơ dễ làm khơi dậy dục vọng, Lý Ni-ma bỗng không còn biết mình là ai nữa, cũng không biết đối phương là ai. Anh ta vồ vào cô như 1 con báo đực vồ vào báo cái.

Mây-tô-la-mu hoàn toàn không ngờ sự việc lại diễn biến như vậy. Cô bị đè xuống thảm cỏ. Tồi tệ nhất là 2 tay của đối phương kéo xé ao cô 1 cách điên cuồng. Mùa hè không mặc nhiều áo, chẳng mấy chốc cô đã không còn mảnh áo che thân. Cô lấy chân đạp, lấy tay đấm, dùng răng cắn chảy cả máu vai đối phương. Sự chống trả không có tác dụng, đối phương lúc này chẳng còn cảm giác đau đớn nữa. Lúc này dù có chặt đầu hắn, hắn vẫn làm cái việc mà hắn muốn làm. Quần bị lôi tuột khỏi chân cô. Cô trần như nhộng mà không phải tự nguyện chút nào. Chớp mắt, trinh tiết, thứ mà cô nâng nui gìn giữ bấy lâu đã trở thành dĩ vãng. Cô kêu thảm 1 tiếng xé lòng.

Không phải tiếng kêu thảm đó đã gọi Pa-ơ-chiu-chu đến. Thằng bé đang trên đường chạy đến chỗ cô. Nó đến tìm cô vì rốt cuộc nó cũng đã có ủng rồi. 1 đôi ủng ống làm bằng da bò đệm lông cừu và nỉ đỏ. Nó đi giày vào chạy như bay đến tìm cô. Vì không quen, nó suýt ngã mấy lần. Thằng bé vẫn cởi trần, áo Tạng quấn ngang lưng theo bước thân nó phấp phới. đôi ủng có đế 7 lớp đóng bằng da bò, làm cho nó bỗng cao lên thêm mấy phân. Nó chạy, gió là tiếng nói của nó, nước là đường đi của nó. Nó dừng lại thì gió cũng ngưng thổi và sông Dã-la ào 1 tiếng rồi xung quanh trở nên yên tĩnh. Thằng bé đứng chết trân như trời trồng. Những gì con trai của tù trường cùng các cô người hầu thường làm sau khi vứt bừa bãi ủng và quần áo trên thảm cỏ, cũng diễn ra tại đây, diễn ra giữa Lý Ni-ma và Mây-tô-la-mu. Chỉ khác là các nàng hầu cùng con trai của tù trưởng rất vui, nhưng Mây-tô-la-mu cùng với Lý Ni-ma không vui chút nào. Điều này nó biết rõ, trong tiếng kêu của Mây-tô-la-mu đầy những “độc tố” phẫn nộ, oán hận. Thằng bé đứng ngây ra một lúc, rồi nó đi rón rén, rón rén như khi nãy nó lấy đôi ủng của con trai tù trưởng. Nó vơ vội áo quần của Lý Ni-ma để trên thảm cỏ, cả đôi giày nữa. Nó đi lùi mấy bước rồi quay người chạy biến.

Pa-ơ-chiu-chu vẫn chưa quen đi ủng, nó lại suýt vấp ngã mấy lần. Nó chạy đến nơi nước sâu và chảy xiết của sông Dã-la, vừa định ném bọc quần áo xuống nước, nó lại đổi ý. Nó nhìn thấy cả 1 đàn chó lãnh địa nhàm chán nằm phơi mình bên bờ sông, bèn vẫy tay lia lịa kêu lên: “Ao-tô-chi! Ao-tô-chi!”
Bầy chó lãnh địa nghe tiếng kêu phấn chấn hẳn lên, chạy ùa cả về phía đó. Thằng bé vứt đống quần áo xuống bãi cỏ rồi xui đàn chó cắn xé. Đàn chó tưởng thằng bé đùa nghịch với chúng, bèn hùa nhau dùng mõm ngoạm những thứ nó vứt xuống, như những diễn viên chó ở rạp xiếc đã được huấn luyện giỏi, chúng cẩn thận không làm rách rồi tranh nhau đưa trả cho thằng bé để tâng công. Pa-ơ-chiu-chu tức giận cầm lấy quần áo và giày, lại ném xuống đất, dùng chân, à không phải dùng chân, mà là dùng đôi chân đã đi ủng, dẫm, đá mạnh đống quần áo. Bọn chó lãnh địa chưa bao giờ thấy Pa-ơ-chiu-chu đi ủng, ngạc nhiên nhìn nó như muốn nói: “Ồ hay quá, Pa-ơ-chiu-chu cũng đi ủng rồi cơ đấy.” Nhưng chúng hiểu ra rất nhanh, Pa-ơ-chiu-chu giậm chân không phải để khoe ủng, nó muốn chúng hiểu rằng những thứ áo quần này là những thứ không tốt, phải bị cắn xé. Thế là đàn chó ùa lên xông vào cắn xé. Loáng cái những thứ đó đã bị xé nát như tương.

Pa-ơ-chiu-chu biết điều quan trọng không phải là hủy hoại những thứ này, mà cốt để đàn chó qua 1 lần hủy hoại những đồ vật này, sẽ có ký ức về mùi hơi trong quần áo. Về sau hễ đánh hơi thấy mùi này, nghĩa là hễ gặp Lý Ni-ma, đàn chó sẽ nảy sinh sự xốc nổi muốn cắn xé. Pa-ơ-chiu-chu tưởng tượng ra cảnh Lý Ni-ma trần như nhộng đi trên thảo nguyên, đàn chó lãnh địa nhìn thấy sẽ xông vào cắn anh ta. Nó cảm thấy làm như vậy là đã báo thù hộ nàng tiên Mây-tô-la-mu trong trái tim nó rồi. Nó vui mừng bất giác gào lên: “Ao-tô-chi! Ao-tô-chi!” rồi quay lưng chạy. Đàn chó lãnh địa đang nhàm chán không có việc gì làm, bây giờ có việc chúng khoái chí chạy theo nó. Pa-ơ-chiu-chu vừa chạy vừa nghĩ, ngay bây giờ nó phải cứu Mây-tô-la-mu từ trong đôi tay cuồng bạo của Lý Ni-ma, và phải cho cô biết con cún trắng Ca-ca mà cô đang tìm đã bị 1 con sói tuyết cái và 2 con sói tuyết đực cắp vào trong núi tuyết Ang-la, và chắc chắn đã bị ăn thịt rồi.


Khi Pa-ơ-chiu-chu dẫn đàn chó lãnh địa đến thì Mây-tô-la-mu và Lý Ni-ma đã tách nhau ra rồi. Mây-tô-la-mu mặc quần áo của mình vào, nằm trên thảm cỏ không biết nên làm gì. Cô ghét cay ghét đắng Lý Ni-ma, chỉ muốn òa khóc 1 trận ra trò, nhưng lại thấy tại mình tự chuốc họa vào thân. Mình đồng ý tìm hiểu, 1 mình đi cùng người đàn ông này. Mình thừa biết dục vọng của người đàn ông đôi lúc sẽ biến thành bạo lực không tự kiềm chế nổi. Tại sao mình lại khóc? Nghĩ vậy, cô không khóc nữa, nằm bất động trên thảm cỏ. Lý Ni-ma sau khi đạt được mục đích bỗng kêu toáng lên: “Quần, quần của anh đâu?” Anh ta vội tìm kiếm quần áo và giày. Anh ta tìm xa lại tìm gần, tìm trên đồng cỏ không thấy lại tìm đến bờ sông. Cứ như vậy anh ta hốt hoảng vừa đi vừa gãi đầu gãi tai, người trần như nhộng. Đúng lúc đó Pa-ơ-chiu-chu và đàn chó lãnh địa bỗng xuất hiện.

Cứ như người và chó đã bàn bạc sẵn, vừa đến nơi, Pa-ơ-chiu-chu và đàn chó tự động tách ra, Pa-ơ-chiu-chu chạy về phía Mây-tô-la-mu, đàn chó chạy về phía Lý Ni-ma. Lúc đầu Lý Ni-ma không ý thức được mối hiểm nguy đang đến. Anh ta đã nhiều lần đối mặt với đàn chó lãnh địa, chỉ cần không ai xui chúng, thường chúng không cắn người. Nhưng anh ta không ngờ sự xúi bẩy đã được bí mật tiến hành từ trước rồi. Đàn chó lãnh địa đến đây là muốn làm khó anh ta. Chúng sủa anh ta, đương nhiên vẫn là chó Tạng lâu la đi trước, Ngao Tạng đi sau. Bọn Ngao Tạng đang chạy thì dừng lại. Hình như chúng thấy cái ngữ trần như nhộng kia hoàn toàn không đáng để chúng đích thân động thủ, giao cho những tên lâu la xử lý là được rồi. Đàn chó lâu la đứa sủa đứa chạy, vồ về phía Lý Ni-ma. Lý Ni-ma kêu lên 1 tiếng: “Chết rồi!” rồi quay lưng chạy. Nhưng chưa chạy được mấy bước, 1 cái răng sắc như dao của 1 con chó Tạng nhanh nhẹn đã chộp 1 cái, cắm vào đùi anh ta.
 

ohcuey

Member
Tuy không ai nhìn thấy, nhưng 1 cô hầu xinh đẹp nói như đinh đóng cột rằng chính Pa-ơ-chiu-chu đã ăn cắp đôi ủng của con trai tù trưởng, vì cô thấy nó nấp trong bụi cây nhìn về phía này. 1 thằng bé lang thang, 1 thằng bé “tha-ua” không nhà không cửa. Mẹ nó lấy người tiễn ma Ta-chư không lâu sau đã chết. Nó lại dám cả gan ăn cắp ủng của con trai tù trưởng. Việc này trên thảo nguyên quả không phải việc nhỏ. Tục lệ của thảo nguyên Chinh-cô-ama là nếu anh giỏi thì đi cướp, cướp giữa đường, cướp nhà cướp của, tụ tập trên rừng, chiếm núi làm vương, không có gì là không được. Khi nổi tiếng, anh sẽ là tướng cướp vĩ đại Nam chinh Bắc chiến lẫy lừng 4 phương, sẽ được dân chăn gia súc kính nể, tù trưởng kính phục, mời về làm thủ lĩnh quân sự của bộ lạc. Việc đó không phải là hiếm. Nhưng nhất quyết không được ăn trộm. Ăn trộm là tội tày trời. Có thể nói thế này: cướp là hành vi của Ngao Tạng, còn trộm là hành vi của sói. Những dân chăn gia súc yêu Ngao Tạng như yêu chính mạng sống của mình, ghét sói thì ghét đến tận xương tủy. Sự khác biệt giữa Ngao Tạng và sói là cướp và trộm. Trong luật của bộ lạc, sự trừng phạt đối với tội ăn cắp là lấy sắt nung đỏ áp vào thịt, đóng đinh tre vào ngón tay, nhốt trong phòng tối, nhốt trong hầm, đeo gong xiềng, treo lên cột cờ, lấy roi đánh… Những người phạm tội trộm cắp thường chết trong hình phạt nghiêm khắc, không chết cũng thành tàn phế. Đặc biệt không được phép ăn trộm đồ đạc nhà tù trưởng. Ăn trộm 1 tấm da của tù trưởng bằng ăn trộm nửa đàn cừu của dân chăn gia súc. Công tử thứ 3 của tù trưởng biết hình phạt dành cho kẻ ăn trộm khốc liệt thế nào nên nói khẽ với nàng hầu: “Đừng kêu to làm ầm lên. Cô đến tim Pa-ơ-chiu-chu, cho nó vài cái bạt tai, khẽ đòi về là được rồi.” Cô hầu nói to hơn: “Cậu Ba, làm thế sao được. Những kẻ lang thang kiếp trước là con sói đáng ghét, chẳng lẽ cậu Ba muốn đối xử khoan dung với sói ư? Hơn nữa Pa-ơ-chiu-chu là con trai của người tiễn ma, người nó bị khí ma ám, nó đi giày của cậu, giày của cậu cũng sẽ ám đầy khí ma. Đôi giày như vậy liệu có thể đi vào đôi chân cao quý của cậu không?” Công tử thứ 3 của tù trưởng nói: “Pa-ơ-chiu-chu có trái tim lương thiện. Mỗi lần ta cho nó thức ăn, nó đều giành 1 nửa cho đàn chó. Ta không tin người nhân hậu như vậy kiếp trước là con sói. Kiếp trước nó là con Ngao Tạng thì đúng hơn. Những người kiếp trước là Ngao Tạng phải được đền đáp tốt.” Cô hầu nói: “Cậu Ba quả có lòng nhân hậu, chỉ tiếc là việc này con không làm chủ được, con phải bẩm với quản gia Chi-Mây. Ngài bảo làm thế nào thì con làm vậy.”

Quyết định của quản gia Chi-Mây là đích thân ngài dẫn chó và người đi tìm Pa-ơ-chiu-chu. Con chó đi cùng là con Ngao Tạng trông nhà loại thượng đẳng của tù trưởng. Loại Ngao Tạng này tìm Pa-ơ-chiu-chu hay tìm đôi ủng của công tử thứ 3 của tù trưởng dễ như tìm tay trong ống tay áo vậy.

Sau 1 giờ, con Ngao Tạng của tù trưởng đã tìm thấy Pa-ơ-chiu-chu trên 1 bãi cỏ cạnh sông Dã-la. Nó vốn quen biết Pa-ơ-chiu-chu nên chỉ sủa chứ không xông vào cắn. Quản gia Chi-Mây mắt nảy lửa, mặt tối sầm, sai 2 người tùy tùng đi theo trói Pa-ơ-chiu-chu lại. 2 người này cầm dây da xông đến định trái thì cạnh Pa-ơ-chiu-chu bỗng xuất hiện 1 người. Đó là nàng tiên xinh đẹp như bông hoa. Cô gái Hán Mây-tô-la-mu với đôi lông mày đẹp dựng lên nghiêm giọng quát to: “Các anh định làm gì?” 2 người tùy tùng lập tức bị cái uy của cô trấn lại.

Quản gia Chi-Mây thấy Mây-tô-la-mu vội cúi người chào và đi lên mấy bước, thuật lại việc Pa-ơ-chiu-chu ăn trộm đôi ủng của cậu Ba nhà tù trưởng. Phản ứng đầu tiên của Mây-tô-la-mu là nhìn đôi ủng dưới chân Pa-ơ-chiu-chu, rồi lại nhìn vào đôi mắt đầy sợ hãi của nó. Cô nói: “Sao em lại ăn cắp đồ đạc?” Phản ứng tiếp đó của cô là nhìn chằm chằm quản gia Chi-Mây: “Chẳng qua chỉ là 1 đôi ủng thôi. Chính tôi sai nó đi ăn cắp đấy. À không, không phải ăn cắp mà là đi lấy. Xem này, thằng bé tội nghiệp cả ngày chạy trên thảo nguyên, bị gai làm đôi chân trầy xước chảy máu hết cả, các anh có biết không? Các anh là quản gia của tù trưởng, chẳng lẽ các anh thiếu 1 đôi ủng sao? Các anh có trách nhiệm trông coi dân chăn gia súc, họ không có ủng sao các anh có thể bỏ mặc? Trách nhiệm của các anh đâu?” Mây-tô-la-mu tức giận nói 1 hơi. Tất cả những oán trách cáu giận với Lý Ni-ma cô trút hết lên đầu quản gia Chi-Mây. Quản gia Chi-Mây không thạo tiếng Hán lắm, những lời nói của Mây-tô-la-mu với ông quả là những luận điệu kỳ lạ. “Ăn trộm ủng là ý của cô ta? Hơn nữa không phải là ăn trộm mà là lấy? Dân chăn gia súc không có ủng là do tù trưởng và quản gia chưa làm tròn trách nhiệm? Thật là vô lý!” Nhưng quản gia Chi-Mây biết không nên làm mất lòng người của ủy ban công tác, đặc biệt là Mây-tô-la-mu, nàng tiên xuống trần này. Điều quan trọng hơn nữa là hình như lời của Mây-tô-la-mu đã báo trước tương lai của thảo nguyên: dân chăn gia súc có thể lấy đồ đạc của tù trưởng, tù trưởng phải chịu trách nhiệm về giày ủng cho họ. Trời ơi! Tương lai của thảo nguyên sẽ thế nào đây? Quản gia Chi-Mây cúi gập người thấp xuống nữa, ông nói: “Cậu Ba chúng tôi nói rồi, Pa-ơ-chiu-chu kiếp trước là con Ngao Tạng. Những người kiếp trước là Ngao Tạng nhất định sẽ gặp may. Đôi ủng này coi như cho nó vậy.” Mây-tô-la-mu nói: “Thế mới phải chứ. Pa-ơ-chiu-chu nếu kiếp trước không phải là Ngao Tạng thì làm sao nó có thể gọi cả đàn Ngao Tạng đến đây.” Lúc này quản gia Chi-mây mới phát hiện bên bờ sông Dã-la có 1 đàn chó lãnh địa đang đuổi 1 người trần như nhộng. Mây-tô-la-mu đẩy quản gia Chi-Mây 1 cái: “Các anh mau đi đi, đi cướp lại người của chúng tôi từ mõm đàn chó kìa.”

Quản gia Chi-Mây và 2 tùy tùng vội chạy đến quát đuổi đàn chó đi. Sau đó Chi-mây quay lại, thấy 2 đùi của Lý Ni-ma máu chảy đầm đìa. May thay anh ta không ngã xuống nên phần người phía trên còn lành lặn. Cũng may anh ta chạy thục mạng, những con chó đuổi cắn anh ta lại là chó lâu la, chúng không biết đón đầu ngắt mất cái “của quý” của anh ta.

Quản gia Chi-mây ngạc nhiên nhìn Lý Ni-ma: “Quần áo anh đâu? Đàn chó lãnh địa xé lột hết quần áo anh rồi ư?” Sau đó ông lại hiểu ra 1 kiểu khác: “À, anh cởi áo quần định tắm sông phải không? Thảo nào đàn chó đuổi cắn anh. Sông Dã-la là sông thánh từ núi tuyết, là Ha-ta (là dải lụa trắng, thường tăng cho khách quý theo phong tục Tạng) của thiên thần tặng cho thảo nguyên. Chưa xin phép thiên thần, sao anh lại tùy tiện tắm sông?” Nói rồi quản gia Chi-Mây cởi áo Tạng bằng da hoẵng đang mặc khoác lên người Lý Ni-ma, cởi mũ ống đội lên đầu anh ta và cởi đôi ủng mũi bò dưới chân đi vào chân Lý Ni-ma. Rồi lại lấy chuỗi hạt mã não đỏ trên cổ mình đeo cho anh ta và nói chân thành: “Xin lỗi người Hán Lý Ni-ma đến từ ngoài thảo nguyên. Chó lãnh địa thảo nguyên Chia-cu Tây có lỗi với anh. Những thứ này coi như tôi thay chúng tạ tội. Chỉ cần anh mặc áo của tôi đã được hun khói hương Tạng, đeo chuỗi hạt mã não đã được phật gia niệm chú, tôi dám cam đoan từ nay không 1 con chó nào dám cắn anh nữa.” Lý Ni-ma cố nhịn đau, nhìn trừng trừng đàn chó, bụng bảo dạ: “Sao mình không mang súng theo nhỉ? Mình mà mang theo thế nào cũng cho chúng 1 băng. Đúng, sau này đi ra ngoài thế nào cũng phải mang súng của Bạch chủ nhiệm. Con nào dám cắn ta sẽ bắn cho nó biết tay.”

Giờ đây thằng bé cởi trần Pa-ơ-chiu-chu đã có ủng rồi, là đôi ủng da bò tót lông cừu và nỉ đỏ. Đôi ủng đó chỉ có con trai tù trưởng mới xứng được mang vào chân. Còn Mây-tô-la-mu đã mất đi trinh tiết, thứ vô giá của cô gái xinh đẹp. Và Lý Ni-ma là người Hán thứ 2 bị chó lãnh địa thảo nguyên Chi-cu Tây cắn. Người đầu tiên là cha tôi, vết thương rất nặng vì bị Ngao Tạng cắn, người thứ 2 là Lý Ni-ma, vết thương nhẹ hơn vì chỉ bị chó Tạng lâu la cắn.

Lúc này quản gia Chi-mây đang ở trong nhà bạt trang trí đủ màu sắc dựng sâu trong lùm cây bụi, bẩm báo về việc giày ủng với tù trưởng bộ lạc sông Dã-la. Tù trưởng Xua-lang-uang-tuôi tay lắc lư tượng bồ tát và bánh xe Ma-ni kim cương có răng cưa, trầm ngâm mãi không nói gì. Bỗng ông ngẩng đầu lên nhìn về ngọn núi tuyết, ở đó lúc nào cũng hiển linh rồi thở dài: “Xem ra thảo nguyên thật sự sắp thay đổi rồi. Đây là điềm báo trước đấy. Ngươi bỏ qua không truy xét chuyện đôi ủng là đúng. Ngươi tặng cho người ta áo và các thứ khác cũng là đúng.”

Còn Mây-tô-la-mu thì đang khóc thổn thức. Cô khóc không phải cho mình mà là cho món quà cả nhà già Ni-ma đã tặng cô trước khi đi. Pa-ơ-chiu-chu nói với cô: “Con cún trắng mà cô tìm kiếm khắp đồng cỏ không còn nữa. Nó đã bị 3 con sói tuyết cắp mang vào núi tuyết Ang-la ăn thịt rồi.” Cùng trong lúc đó, trong nhà vọng gác ngoài trát phân bò, tổng hành dinh của ủy ban công tác Chia-cu Tây, Bạch chủ nhiệm đang lớn tiếng phê bình cô: “Chó là vật quý trên thảo nguyên. Dân chăn gia súc đã tặng cho đồng chí món quà quý giá nhất của họ, thế mà đồng chí lại làm mất, mà lại mất vào mõm sói. Đồng chí làm ăn như vậy hả? Còn không mau nghĩ cách cứu vãn đi. Đây không phải chuyện nhỏ đâu. Còn đồng chí, đồng chí nói chưa làm mất lòng đàn chó lãnh địa, không mất lòng sao chúng lại đuổi cắn đến nông nỗi này? Chó Tạng, đặc biệt là Ngao Tạng, thái độ của chúng chính là thái độ của thảo nguyên. Chó Tạng đã không thích anh, coi như bà con chăn gia súc cũng không thích anh. Anh đến thảo nguyên Chia-cu Tây thời gian khá dài rồi, sao mỗi cái việc xử lý tốt mối quan hệ với chó cũng không được? Còn cái áo da hoẵng, chiếc mũ ống cao, đôi ủng mũi bò, cả chuỗi hạt mã não đỏ nữa, đều rất đắt tiền, đồng chí không được giữ lại, tránh thiên hạ người ta nói người của ủy ban công tác tham lam hủ hóa. Mây-tô—la-mu, cô mau bôi thuốc vào vết thương cho anh ta đi. Vết thương lành rồi, việc đầu tiên là trả hết những thứ này cho người ta. Việc thứ 2 là phải làm tốt công tác với chó, để chó làm quen lại với anh. Còn nữa, 2 người đừng có lúc nào cũng dính vào với nhau, ảnh hưởng không tốt đâu. 1 nam 1 nữ cứ chạy lông nhông trên bãi cỏ, còn ra cái thể thống gì nữa!”
 

ohcuey

Member
Nửa tháng nay, Cang-rư-sân-cơ sống yên ổn dưới sự chữa trị chăm sóc hết mình của Tạng y Tô-y-thê. Ngày nào nó cũng được ăn phổi bò khô, xương dê băm nhỏ nên vết thương trên mình nó nhanh chóng lành lại, tinh thần ngày càng tốt lên. 1 hôm vào buổi trưa, Cang-rư-sân-cơ đi ra ngoài hang động Mật Linh, đi 1 vòng thung lũng núi tuyết, lúc về trong mồm ngoạm 1 con chồn sóc tuyết. Hôm sau, sáng tinh mơ nó cũng lại ra ngoài, lúc về cũng ngoạm 1 con chồn sóc tuyết. Chồn sóc tuyết là 1 loài chồn vàng sống trên tuyết, chạy nhanh chui giỏi không dễ gì bắt được. Nhưng không những Cang-rư-sân-cơ đã bắt được, lại còn bắt được những 2 lần. Điều đó nói lên điều gì, Cang-rư-sân-cơ tự biết rõ. Cả 2 lần nó đều đem con chồn sóc đến trước mặt Tạng y Tô-y-thê và 7 đứa trẻ Ama Thượng như làm bằng chứng. Tạng y Tô-y-thê cười hà hà, vỗ vào chiếc đầu to tướng của nó: “Hôm nay bắt được chồn sóc tuyết, ngày mai ắt sẽ cắn chết được sói.”

Con chồn sóc tuyết vẫn còn sống. Cang-rư-sân-cơ lấy chân gẩy đi gẩy lại, rồi đưa đến trước mõm Ngao đen Na-rư. Con Na-rư đang nằm dưới đất thấy chồn sóc tuyết liền há mõm ngoạm, dùng răng cắn, 1 lúc lâu mới cắn đứt được cuống họng con chồn. Nó nhai cả xương 1 cách ngon lành. Cang-rư-sân-cơ đứng bên cạnh nhìn nó ăn, không xơ múi tí nào. Đó cũng là sự khác biệt giữa Cang-rư-sân-cơ và Ngao đen Na-rư, giữa chó trông nhà và chó lãnh địa. Cang-rư-sân-cơ từng là chó trông nhà. Loại chó trông nhà ưu tú trên thảo nguyên thường không ăn thú rừng, trừ khi gặp trường hợp không ăn thì sẽ chết đói.

Ngao đen Na-rư ăn rất chậm. Tạng y Tô-y-thê ngồi xổm bên cạnh, không ngừng rắc thuốc bột pha chế từ bột đá quý, bột xạ hương và hồng hoa tạng vào thịt con chồn. Na-rư biết thuốc này đắt như vàng, nó cố liếm bằng hết không bỏ phí. Tô-y-thê vuốt nhè nhẹ đầu nó nói: “Na-rư bị thương nặng quá, còn phải chữa trị 1 thời gian nữa mới có thể ra ngoài kiếm mồi được.” Vết thương trên đầu Na-rư đang dần kín miệng. Sống mũi bị gãy đã được Tạng y Tô-y-thê nối liền lại. Mắt trái bị thương 2 lần đã không còn sưng tấy nữa. Nhưng Tô-y-thê vẫn chưa hết lo lắng. Thị lực bên mắt trái nó liệu có khôi phục được như trước không? Nếu không sẽ kém đến mức độ nào?

4 vị lạt ma gậy sắt cõng Cang-rư-sân-cơ và Ngao đen Na-rư đã về 2 người. 2 vi lạt ma ở lại theo lời dặn của phật sống Tan-Trân, chăm sóc và bảo vệ người và chó trong động, đặc biệt là 7 đứa trẻ Ama Thượng, tuyệt đối không cho chúng đi ra ngoài động Mật Linh, trong thung lũng Mật Linh. Phật sống Tan-trân đã nói bên ngoài thung lũng Mật Linh là vách núi sào điêu. Những con chim điêu tuyết sẽ báo cho những kỵ sĩ vào trong núi tìm kiếm rằng: “Ở đây có người, ở đây có người.”

Thung lũng Mật Linh là 1 thung lũng ngầm ẩn trong núi tuyết Ang-la. Thung lũng ngầm tức là những dãy núi cao đang chạy theo hướng Đông-Tây bỗng xuất hiện 1 thung lũng chạy theo hướng Nam-Bắc. Nhìn từ xa tuyệt nhiên không nhận ra ở đó có 1 thung lũng, chỉ khi đến gần mới phát hiện thấy ngọn núi đang vươn lên đột nhiên rơi xuống, càng rơi càng sâu và mở rộng ra thành thung lũng. Không biết từ gao giờ, 1 vị tăng lữ tu hành pháp danh là “Rư-chao-ba” đã phát hiện rat hung lũng ngầm này, bèn đặt tên là Mật Linh, nghĩa là thung lũng phật giáo của phái Mật Tông linh thiên hiển linh. Trong thung lũng Mật Linh trời đất ban tặng này có 1 hang động cũng do trời đất tạo nên. Những vị tăng lữ phát Mật Tông khổ luyện tu hành trong thế giới tuyệt đối cô quạnh yên tĩnh này là những người đầu tiên sống trong hang động Mật Linh.

Trải qua mấy trăm năm, hàng ngàn tăng lữ phái Mật Tông trong trạng thái cực kỳ cơ mật bí hiểm đã tu luyện thành quả đại viên mãn pháp, thời luân kim cương pháp, đại thủ ấn pháp, diêm ma đức ca pháp và kim cương tiết pháp của Liên Hoa Sinh hồng truyền. Các tăng lữ tu luyện thành quả, luyện được công phu dự báo trước tương lai, cưỡi trống phi hành, nuốt dao phun lửa, đọc mật chú hạ sát địch thủ, phân thân đoạt xá… Sau khi đạt thành quả đó, họ rời khỏi hang động đi thật xa. Như 1 thứ gia bảo chỉ truyền cho 1 người, vị cao sư Mật Tông khi đã tu thành chính quả rời khỏi nơi khổ tu, việc đầu tiên là chiêu mộ môn đồ để truyền thụ mật pháp. Mấy năm sau vị sư chọn 1 môn đồ xuất sắc nhất và cáo từ thung lũng Mật Linh và động Mật Linh. Ông chỉ truyền mật pháp cho 1 người, duy nhất 1 người mà thôi. Người đồ đệ xuất sắc nhất đó sau khi được truyền sẽ lặn lội nghìn dặm tìm đến núi tuyết Ang-la. Việc đầu tiên là tìm thung lũng Mật Linh và động Mật Linh. Nếu tìm thấy coi như có duyên với mật pháp, sẽ theo truyền thụ của sư phụ mà tu luyện tại đó. Nếu không tìm thấy coi như không có duyên, trở về phúc đáp với sư phụ để sư phụ cử môn đồ khác đến tìm.

Phật sống Tan-Trân đương nhiên là người đã tìm thấy động Mật Linh và tu luyện tại đó. Khi ngài tu thành chính quả liền rời khỏi động Mật Linh, khỏi thung lũng Mật Linh. Ông vô cùng kinh ngạc vì phát hiện thấy khắp thung lũng kín đặc những con Ngao Tạng. Kín đặc đến nỗi hầu như tất cả Ngao Tạng của thảo nguyên Chia-cu Tây đều tập hợp đến đây. Sau này phật sống mới biết, năm đó thảo nguyên xảy ra ôn dịch trong đàn chó. Trăm năm chưa chắc đã gặp 1 trận ôn dịch chó trầm trọng như vậy. Năm đó những con Ngao Tạng bất luận là chó lãnh địa, chó trông nhà, chó trông chùa hay chó chăn cừu đều trở thành đối tượng bị thần ôn dịch tấn công và giết 1 cách không thương tiếc. Loài Ngao Tạng hễ mắc phải bệnh truyền nhiễm đều tự động rời khỏi chủ nhân và thảo nguyên, đi đến núi tuyết thật xa rồi chết cô độc tại đó. Nhưng năm đó chúng không chết cô độc. Cả đàn bị nhiễm bệnh, cùng tìm đến thung lũng Mật Linh. Hình như chúng đã biết từ lâu trong núi tuyết Ang-la có 1 nơi không ai biết đến, là thung lũng Mật Linh.

Người tu hành thần bí phật sống Tan-Trân ngây người ra mãi không dám bước chân. Ngài đã từng nhìn thấy những con sóc tuyết và báo tuyết vô tư chạy tung hoành trong thung lũng, chứ chưa bao giờ thấy Ngao Tạng, con vật sống và làm bạn với con người có mặt tại đây. Cả bầy Ngao Tạng rủ nhau đến đây cùng ra đi vĩnh viễn 1 cách lặng lẽ cũng ngạc nhiên không kém gì người nhìn thấy chúng. “Sao ở đây lại có người nhỉ? Mà lại là 1 người rất được kính trọng trong số người trên thảo nguyên. Xem ra chúng không thể chết tại đây, chết tại nơi trong sạch này.” Nhưng khổ nỗi chúng không lê bước nổi nữa. Số phận bắt chúng phải chết tại thung lũng Mật Linh này. Trong lúc bầy Ngao Tạng lũ lượt trút hơi thở cuối cùng cũng là lúc phật sống Tan-Trân đi ra khỏi thung lũng Mật Linh. Việc đầu tiên ngài làm không phải là chiêu mộ môn đồ mà là tế lễ hồn của những con Ngao Tạng. Ngài nói cho mọi người biết tại sao những con Ngao Tạng bị bệnh dịch lại đến núi tuyết Ang-la tìm nơi an nghỉ cuối cùng. Vì chúng không muốn truyền bệnh cho người và chó khác. Khi chết chúng sẽ trở thành thức ăn cho sói, sói ăn rồi sẽ bị lây bệnh, cũng sẽ chết theo, như vậy trên thảo nguyên sẽ không xuất hiện tình trạng không đủ Ngao Tạng bảo vệ, để sói đến ăn thịt cừu. Cũng có thể nói, Ngao Tạng ốm chết sẽ kéo theo vài con sói chết cùng. Sói là loài thú rất thông minh xảo trá, nhưng khi gặp xác Ngao Tạng, chúng hoàn toàn mất đi khả năng suy nghĩ, vì trong suy nghĩ của chúng Ngao Tạng thường cắn chết sói, sự thù hận của chúng với Ngao Tạng là thù hận lớn nhất trong tất cả các thù hận của sói. Chúng nóng lòng muốn phục thù, trút hết thù hận đã nung nấu bấy lâu. Thế là chúng hoàn toàn mất hết lý trí xông vào xác con Ngao Tạng điên cuồng cắn xé, ăn tươi nuốt sống xác con Ngao mang bệnh dịch.

Phật sống Tan-Trân nói đó là ưu điểm của Ngao Tạng. Chúng dù có chết vì bệnh tật cũng phải để sói nếm mùi lợi hại của chúng, cũng phải làm tròn bổn phận bảo vệ người và gia súc. Hết năm thứ 3 làm giỗ tế lễ linh hồn của các con Ngao Tạng, phật sống Tan-Trân mới bắt đầu chiêu mộ môn đồ, truyền thụ mật pháp. Nhưng ngài không truyền cho đồ đệ xuất sắc nhất về sự tồn tại của thung lũng Mật Linh và động Mật Linh, nơi tu luyện thiêng liêng và cơ mật nhất của phái Mật Tông, vì cơ man nào là Ngao Tạng đã chết ở đó, cơ man nào sói do ăn thịt Ngao bệnh cũng chết tại đó. 1 nơi mà chỗ nào cũng phảng phất linh hồn Ngao và linh hồn sói như vậy không thể tu luyện thành chính quả. Nếu cứ khăng khăng đòi tu luyện tại đó, rất có thể bị ma chướng nhập vào người, nhiễm phải tà khí, trở thành kẻ thù của phật pháp Mật Tông. Ngài đã lĩnh hội được ý chỉ của đại phật Như Lai: Thung lũng Mật Linh đã không còn nữa, ông là người đắc đạo cuối cùng tu luyện trong động Mật Linh.

Tuy động Mật Linh không còn là đạo trường tu luyện cơ mật nữa, nhưng người biết đến nơi đó cũng không nhiều. 7 đứa trẻ Ama Thượng và Cang-rư-sân-cơ được giấu ở đó tuyệt đối an toàn. Suốt nửa tháng, dưới sự chỉ huy của tướng cướp Chia-ma-chua, các kỵ sĩ bộ lạc Mục Mã Hạc tìm kiếm khắp khe núi, khắp vùng núi tuyết Ang-la nhưng không phát hiện ra thung lũng Mật Linh ẩn trong núi. Không chỉ 1 lần, từ xa họ đã nhìn thấy ngọn núi cao vút chạy theo hướng Đông Tây, nhưng vẫn không phát hiện ra 1 thung lũng sâu bỗng từ thế núi cao rơi tõm xuống. Việc tìm kiếm xem như thất bại, đoàn người sắp quay về. Chính cái ngày định quay về đó, ngày thứ 16 tính từ khi 7 đứa trẻ Ama Thượng và Cang-rư-sân-cơ trốn vào trong hang thì 1 chuyện đã xảy ra.
 

ohcuey

Member
Ngày hôm đó, trong dãy núi Ang-la hùng vĩ, con sói tuyết cái để cún trắng Ca-ca trên 1 cái dốc đóng băng. Nó ngoạm 1 miếng cắn gãy chân sau của Ca-ca rồi nhảy lên 1 mỏm đá trước mặt dốc băng, dùng tiếng gầm và nhe hàm răng sắc như dao kiên trì đuổi 2 con sói đực định ăn thịt Ca-ca. Khoảng 20 phút trôi qua, rốt cuộc 2 con sói đực vì khiếp sợ, hoặc giả là đã bị sói cái thuyết phục, theo con sói cái nhảy lên mỏm đá cao hơn, từ trên nhìn xuống cún trắng đang đau đớn vật vã.

Ca-ca không đủ sức để sủa gâu gâu nữa. Tiếng sủa trở nên khàn khan đứt quãng, nhỏ dần, nhỏ dần, cuối cùng biến thành tiếng thút thít ri rỉ, tiếng khóc không kiềm được. Cái đau xé lòng làm cho sự sợ hãi nhu nhược từ nơi sâu thẳm trong nó bị đào xới ra, bởi đối với loài Ngao Tạng không bao giờ có sự sợ hãi lộ bên ngoài. Bản năng sống không muốn bị thương, khiếp sợ cái chết bỗng xâm nhập vào linh hồn Ca-ca, khiến lần đầu tiên trong đời nó cảm thấy tuyệt vọng về khả năng của mình và vị thế của Ngao Tạng trong thiên nhiên. Nó kéo lê cái chân gãy vừa kêu khóc vừa chạy trốn thục mạng. Chạy đến gần kiệt sức mới phát hiện ra mình chỉ chạy vòng tròn. Vệt máu đỏ tươi như dùng compa vẽ 1 vòng lại vẽ tiếp vòng khác trên dốc băng trắng xóa. Vòng cuối cùng kết thúc trong cơn đau đớn mệt nhoài. Nó thở hắt ra 1 tiếng rồi nằm yên bất động trên tuyết. Nó không chết, cũng không ngất đi. Theo tiềm thức nó đã áp dụng biện pháp hữu hiệu nhất khi đang đối mặt với cảnh cùng quẫn: cắn chặt hàm răng, lặng lẽ nhẫn nhịn.

1 tiếng đồng hồ trôi qua, người nó càng lúc càng lạnh toát, lạnh đến nỗi nó không còn cảm nhận được cái lạnh buốt của dốc băng và không khí giá lạnh của núi tuyết nữa. Máu vẫn còn chảy, vừa chảy ra đã đóng băng. Cún trắng Ca-ca nhìn dòng băng màu đỏ đó không chớp mắt. Nó ý thức được rằng chất tinh thể đó liên quan đến sự sống của nó, càng chảy nhiều, nó càng kề cận cái chết. Dấu hiệu của cái chết là sự khát nước khủng khiếp. Ca-ca cố động đậy, đầu gối lên cái tinh thể màu đỏ đó. Nó thè lưỡi ra liếm chầm chậm. Hình như dễ chịu hơn chút rồi, có vẻ không đau lắm nữa, có vẻ cái thong lọng chết choc đang quàng vào cổ nó dần nới lỏng ra. Sự thực nó không biết gien di truyền tuyệt vời của Ngao Tạng đang phát huy tác dụng, khiến 1 bản năng khác trỗi dậy từ dòng máu còn sót lại của nó. Ca-ca không còn nhu nhược và sợ hãi cái chết nữa. Bất giác nó trở nên cứng rắn kiên cường. Nó lại sủa gâu gâu, tiếng sủa càng lúc càng to, vừa sủa vừa cố đứng lên, dùng 3 cái chân lành lặn đỡ lấy người. Nó dùng khứu giác nhạy bén trời phú nắm bắt được mùi gây gây của sói và hướng vào đó sủa đầy căm thù.

Con sói tuyết cái cùng 2 con sói tuyết đực vẫn đầy kiên nhẫn nằm phục trên mỏm tuyết nhìn cún trắng. Chúng thích nghe tiếng sủa của Ca-ca. Ở cái nơi dã thú thường xuyên xuất hiện này, tiếng sủa của chó con không được coi là lời cảnh báo. Nó chỉ được xem là mồi nhử, nhử đến 1 con sói tuyết cái chỉ có nửa mũi. Con sói tuyết cái nữa mũi sắp đến, thời khắc ăn thịt con Ca-ca cũng sắp đến.

Sói cái nửa mũi là con sói lang thang cô độc, ít ra hiện giờ là vậy. Nó to cao khỏe mạnh, tính tình hung bạo, thường đến đây dùng cử chỉ coi thường miệt thị khiêu khích chủ nhân của lãnh địa băng dốc: sói cái và 2 con sói đực. Đối với con sói cái, nguy hiểm nhất là khi sói cái nửa mũi đến khiêu khích, sự chống trả của 2 con sói đực rất cầm chừng. Sự khiêu khích đó đôi lúc trở thành trêu ngươi. Điều này nghĩa là gì, sói tuyết cái hiểu rõ mười mươi: 2 con sói đực tuy đã luống tuổi, nhưng khi động cỡn bản tính háo sắc không suy giảm. Chỉ cần 1 trong 2 con sói đực phản bội nó, thì chủ nhân của băng dốc này không còn là nó nữa, mà sẽ là sói tuyết cái nửa mũi.

Vì vậy sói tuyết cái nghĩ ra kế để sói tuyết cái nửa mũi kia ăn thịt cún trắng, theo thuật ngữ của loài người kế đó gọi là “gắp lửa bỏ tay người”. Để thực hiện mưu kế đó, nó phải có ý chí để ức chế bản năng tham ăn của nó, còn phải thuyết phục 2 con sói đực theo mình, để chúng cũng có được tố chất thông minh lạnh lùng trong cái thế giới băng tuyết này.

Tất cả các con thú rừng bao gồm cả sói tuyết trên thảo nguyên đều biết rõ, khứu giác của loài Ngao Tạng là vũ khí đáng sợ nhất. Nếu con thú nào muốn cắn bị thương chủ nhân hoặc người thân của chủ nhân Ngao Tạng, hay muốn cắn chết bò cừu mà Ngao Tạng bảo vệ, trước khi hành động, con thú đó phải tính tới cách thoát khỏi sự theo dõi phục thù của Ngao Tạng, nếu không, cuộc đời nó coi như chấm hết. Những con Ngao Tạng phục thù sẽ tìm kiếm tông tích của nó, san bằng sào huyệt của nó. Điều cực kỳ nghiêm trọng là sự phục thù của Ngao Tạng không phải đến ngay mà cách 1 khoảng thời gian dài, nửa năm hoặc 1 năm, khi con thú đó đã quên hết mọi việc, không hề cảnh giác phòng bị. Con Ngao Tạng sẽ giống như từ trên trời rơi xuống, xuất hiện ngay trước sào huyệt của nó. Nó không biết Ngao Tạng này đến từ đâu, nhưng Ngao Tạng lại biết nó. Chiếc mũi và ký ức của Ngao Tạng báo cho nó biết, đây chính là kẻ thù, là thủ phạm từng làm hại đến chủ nhân hoặc người thân của chủ nhân nó, hay chính là kẻ đã cắn chết bò cừu mà nó bảo vệ. Vì vậy theo kinh nghiệm lâu đời, một khi sói tuyết đã đắc tội với Ngao Tạng, hành động đầu tiên là chạy trốn, cao chạy xa bay đến 1 nơi thật xa.

Giờ đây mưu kế thông minh của con sói tuyết cái sắp thành công. Mắt nó bỗng sáng lên khi nhìn thấy 1 bóng sói đang di động. Đó chính là con sói tuyết cái nửa mũi. Nó đang chạy đến đây từ 1 cái rãnh dưới chân núi.

Sói tuyết cái hưng phấn đứng thẳng lên. Nó tru lên như là đang đe dọa đối phương. Nó nhận thấy sự đe dọa này là cần thiết, vì đối với “nửa mũi” hung hãn táo bạo này, càng đe dọa thì nó càng chạy đến. Nếu im hơi lặng tiếng, nó sẽ nghi ngờ ngay: “Phải chăng đây là cái bẫy? Là mồi nhử tẩm độc?” Con sói tuyết cái vẫn cứ tru lên đe dọa. “Con nửa mũi” từ xa nhìn thấy sói tuyết cái. Nó vừa đánh hơi vừa đi về hướng đó.

Mùi gây của sói càng lúc càng nồng. Cún trắng Ca-ca sủa to đầy căm thù. Khi “con nửa mũi” nhô ra từ sau 1 gò tuyết, Ca-ca dũng cảm dùng 3 cái chân lành lặn vồ lên 1 cái. “Nửa mũi” dừng lại. Tuy sự đe dọa của sói tuyết cái chứng tỏ cún trắng chẳng phải mưu mô quỷ kế gì, nhưng nó vẫn cẩn thận nhìn quanh với đôi mắt thăm dò. Nó cảm thấy có cái gì đó không ổn lắm. Nó kéo căng chân trước, rón rén cẩn thận đến gần con mồi, dùng chân trước hất ngã Ca-ca vẫn đang sủa gay gắt.

Nó nhe nanh ra nhưng chưa vội cắn, dùng nửa chiếc mũi gạt gạt lông cún trắng ngửi xem có mùi thuốc độc không. Sau đó nó ngẩng đầu lên, gập cổ xuống lắc mạnh đôi tai thẳng đứng mấy cái. Nó kiểm tra nghe ngóng 1 lần cuối cùng, rồi nó phát hiện ra: 1 thứ tiếng gì rất nhỏ đang xuất hiện, tiếng nhỏ như vậy sói tuyết khác không nghe thấy, nhưng nó lại nghe thấy, vì nó chỉ còn có nửa mũi, 1 nữa mũi bị mất đủ khiến nó cảnh giác và nhạy cảm bội phần với những mỗi hiểm nguy tiềm ẩn, đủ để nó nhớ bài học xương máu: “Không nên dính vào Ngao Tạng, trừ khi không muốn sống nữa.”

Sói tuyết cái nửa mũi ngẩng đầu lên, giận dữ nhìn sói tuyết cái và 2 con sói tuyết đực đang đứng trên mỏm đá. Nó liếc 1 cách nham hiểm: “Đúng là quỷ kế. Được lắm, chúng bay hãy đợi đấy.” Rồi nó nhảy lên, quay ngoắt người chạy, chớp mắt đã không còn thấy tăm hơi.

Thế này là thế nào? Con sói cái và 2 con sói đực nghi hoặc. Chúng cảm thấy khó hiểu. Chúng đứng từ mỏm tuyết trên cao nhìn xuống, nóng lòng chờ đợi xem màn diễn “nửa mũi ăn thịt cún trắng”, nhưng chỉ thấy màn chạy trốn thật nhanh của “nửa mũi”. Con sói cái ngẩng cao đầu, cảnh giác nhìn xung quanh. 2 con sói đực đã mất hết kiên nhẫn để tìm hiểu rõ vấn đề, chúng không đợi được sói cái đưa ra quyết định, tranh nhau từ mỏm tuyết chạy xuống, nước bọt them thuồng đã rỏ xuống ướt cả 1 mảng đất. Ruột và dạ dày dưới sự cám dỗ của miếng mồi bắt đầu co thắt thật mạnh. Mỗi tế bào đều chỉ phát ra 1 tiếng nói: “Ăn thịt cún trắng. Ăn thịt cún trắng.”

Sói tuyết cái vẫn đứng trên mỏm tuyết, nhìn về phương xa nơi thung lũng Mật Linh. Bỗng nó run rẩy, tru lên 1 tiếng cảnh báo chối tai về phía 2 con sói đực.
 

ohcuey

Member
Trong động Mật Linh ẩn trong thung lũng Mật Linh của núi tuyết Ang-la, Tạng y Tô-y-thê nói với 2 vị lạt ma gậy sắt: “Thịt khô và bột thanh khoa gần hết rồi, phổi bò khô và xương cừu vụn cũng không còn là bao, 2 vị phải về 1 chuyến. Hôm nay không về, ngày mai chúng ta không còn gì để ăn. Người nhịn đói mấy ngày không sao, 2 con Ngao Tạng không thể để chúng đói. Chúng đang trong giai đoạn chữa trị, hồi phục thể lực, không có gì ăn, thuốc mà ta cho chúng uống không có tác dụng.”

1 vị lạt ma nói: “Lạt ma vua thuốc nói đúng, chúng tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng chỉ e khi chúng tôi đi, 7 đứa trẻ Ama Thượng không nghe lời vua thuốc, vạn nhất chúng chạy rat hung lũng Mật Linh thì uổng công lo lắng của phật gia Tan-trân.” Tạng y Tô-y-thê nói: 7 đứa trẻ và Cang-rư-sân-cơ cùng 1 lòng. Ta chỉ cần canh thật chặt Cang-rư-sân-cơ, coi như đã canh chặt bọn trẻ rồi. Lạt ma cứ yên tâm đi đi. Không có chuyện gì đâu.”

Đúng vào giữa trưa, ánh nắng chiếu thẳng xuống mặt đất phủ đầy tuyết, phản chiếu 1 thứ ánh sáng mạnh chói mắt, 2 vị lạt ma gậy sắt chào mọi người và từ biệt lũ chó, đi nhanh ra ngoài.

Ra khỏi thung lũng Mật Linh là vách núi điêu sào. Không biết tại sao và từ bao giờ, cái nơi ngàn năm tuyết phủ chất thành biển tuyết mênh mông này bỗng mọc lên 1 vách núi cả năm không 1 bông tuyết rơi xuống. Trên vách núi chi chit những tổ chim tuyết điêu. Mấy nghìn con tuyết điêu làm tổ ở những mỏm đá và sống ở đó từ xa xưa. Tuyết điêu hễ thấy người là kêu. Đấy là tiếng kêu bày tỏ vui mừng và cảm kích với con người. Trong ký ức của chúng, con người chưa bao giờ làm tổn thương đến chúng. Họ còn đưa những con tuyết điêu bé bỏng chẳng may bị sói tuyết cắn bị thương đem về chữa trị lành lặn rồi thả chúng về với đàn. Con người có lòng tốt với tuyết điêu vì tuyết điêu ăn chuột dúi và chuột thỏ, 2 loại động vật gặm nhấm tiêu thụ lượng cỏ lớn nhất trên thảo nguyên. Chúng ăn nhiều gấp mấy lần đàn bò cừu. Nếu không có tuyết điêu – thiên địch của chúng, thì thảo nguyên sẽ trở thành 1 bãi đất trống cỏ cây không mọc nổi. Dân chăn gia súc có câu: “Cỏ cây xanh tốt mọc từ đất, bò cừu béo tốt tuyết điêu cho.” Gặp những năm chuột hoành hành phá hoại cây cỏ nghiêm trọng, tù trưởng và các vị lạt ma trong chùa đều mang bơ, phomát thơm ngon nhất đến dưới vách núi điêu sào, đốt hương khói, đọc kinh cầu nguyện, tế lễ sơn thần, đồng thời cầu xin thần điêu hóa thân hiện lên biến thành chiến thần của bộ lạc, tiêu diệt nghiệp chướng do loài động vật gặm nhấm này gây ra.
Giờ đây, những con điêu tuyết trên vách núi điêu sào bắt đầu kêu. Vẫn là những biểu hiện vui mừng và cảm kích. Chúng từ trên cao nhìn xuống, thấy 2 vị lạt ma gậy sắt trên người quấn chăn chiên đỏ vội vã ra khỏi thung lũng.

Trước đèo núi tuyết Ang-la xa xa, không biết bao nhiêu con điêu tuyết tập hợp lại phát ra những tiếng kêu như 1 bàn tay vô hình kéo chân đoàn người sắp ra khỏi núi tuyết. Đoàn người đó là những kỵ sĩ của bộ lạc Mục Mã Hạc, dưới sự chỉ huy của tướng cướp Chia-ma-chua. Họ đi tìm 7 đứa trẻ Ama Thượng. Việc tìm kiếm đã kéo dài nửa tháng thì nhận được lệnh của tù trưởng Ta-cơ-niê-y: “Không tìm nữa, các kỵ sĩ rút về thảo nguyên Long Bảo Trạch trước khi trời tối.” Tù trưởng Ta-cơ-niê-y còn nói: “Cứ tìm mãi không bằng triệu tập hội nghị liên minh các bộ lạc, trực tiếp chất vấn phật sống Tan-trân chùa Chia-cu Tây: tại sao lại giấu kẻ thù Ama Thượng và chó của chúng? Nếu ngài không muốn trở thành kẻ phản bội của thảo nguyên Chia-cu Tây thì nên mau giao cho chúng tôi người và chó. Chỉ dựa vào câu: “Phật lấy thiện làm gốc, lấy từ bi giữ mình” thì không đủ để chúng tôi tin phục và tha thứ. Xin hỏi ngài, phật gia, người Ama Thượng có bao giờ làm việc thiện cho chúng tôi không? Chúng tôi cung cấp đủ thứ cho ngài không phải để ngài quên đi lịch sử. Nợ máu phải trả bằng máu, đó là tín ngưỡng của bộ lạc. Người trên thảo nguyên Chia-cu Tây, bao gồm cả phật gia đều phải gánh vác trách nhiệm vì tín ngưỡng thiêng liêng này.”

Tù trưởng Ta-cơ-niê-y rút các kỵ sĩ về còn vì 1 nguyên nhân là có người đã nhìn thấy Tạng Cha-xi, kẻ bị đuổi khỏi chùa đang lang thang trên thảo nguyên với 2 tay còn lành lặn. Làm sao có thể để như vậy? Tù trưởng Ta-cơ-niê-y nhắn tin cho tù trưởng các bộ lạc khác: “Hỡi các kỵ sĩ của các bộ lạc, đã đến lúc chúng ta phải lục soát thật kỹ 1 lần từ đầu đến cuối thảo nguyên Chia-cu Tây, tìm cho ra kẻ phản bội Tạng Cha-xi, chặt đứt đôi tay hắn. Nếu không quyền lực của hội nghị liên minh làm sao thể hiện được? Uy nghiêm của các tù trưởng làm sao thể hiện được? Luật lệ của thảo nguyên Chia-cu Tây làm sao thực thi được? Người nhìn thấy Tạng Cha-xi nói lại rằng thấy tay hắn cầm gậy đánh chó, cho thấy hắn sắp rời đất này đi đất khác. Phải mau bắt lấy hắn, chặt đứt 2 tay hắn rồi mới cho hắn rời khỏi thảo nguyên Chia-cu Tây. Hỡi các kỵ sĩ của các bộ lạc, giờ xuất phát của các người đến rồi.” Tù trưởng Ta-cơ-niê-y là người hiểu rõ sứ mệnh và đầy trách nhiệm, vì vậy đã khẩn cấp triệu tập thủ lĩnh quân sự của bộ lạc, tướng cướp Chia-ma-chua và các kỵ sĩ về, mục đích chủ yếu là truy bắt Tạng Cha-xi.

Các kỵ sĩ bộ lạc Mục Mã Hạc dừng lại ở đèo núi tuyết Ang-la. Họ ngạc nhiên lắng nghe tiếng kêu của chim tuyết điêu. Không nghi ngờ gì nữa, tiếng kêu đó báo cho họ biết: “Ở đây có người. Ở đây có người.” Tướng cướp Chia-ma-chua nói: “Có người ư? Nhưng chúng ta đã tìm kiếm từng ấy ngày, chẳng thấy bóng 1 ai cơ mà?” Ông do dự rồi bỗng nói to: “Các kỵ sĩ, tù trưởng lệnh cho chúng ta rút về thảo nguyên Long Bảo Trách trước khi trời tối. Bây giờ còn sớm, cách nơi mặt trời lặn còn đường đi của 3 mũi tên bắn, sao chúng ta không quay lại xem sao? Xem ai đã đến vách núi điêu sào?” Các kỵ sĩ đồng thanh tán thành. Thế là tướng cướp Chia-ma-chua dẫn đầu mấy chục kỵ sĩ bộ lạc Mục Mã Hạc phi như bay về phía vách núi điêu sào.

Sắp đến vách núi điêu sào, đoàn kỵ sĩ gặp 2 vị lạt ma gậy sắt đi xuống núi vội vã. Không đợi tướng cướp ra lệnh, tất cả kỵ sĩ đều nhảy xuống ngựa, cúi người cung kính đợi. Tướng cướp Chia-ma-chua thắng dây cương, vừa nhảy xuống ngựa vừa hỏi: “2 vị lạt ma gậy sắt, các ngài đến từ đâu?” 1 vị lạt ma nghiêm nghị nói: “Tướng cướp Chia-ma-chua, chẳng lẽ anh không nhận ra sao? Chúng tôi đến từ trên trời.” Tướng cướp Chia-ma-chua nhìn trời, lại nhìn đất rồi nói: “Các vị đến từ trên trời, sao dấu chân lại in dưới đất?” 1 vị lạt ma khác lại nói: “Bóng trên trời xuống đất biến thành dấu chân vì chúng tôi vác trên vai gậy sắt nên người nặng thêm.” Tướng cướp Chia-ma-chua cười nói: “2 vị lạt ma người nặng, có cần đến con tuấn mã của trần gian không? Để kỵ sĩ của chúng tôi đưa 2 vị 1 đoạn.” “Không cần, không cần, chỉ cần 3 chân 4 cẳng là về đến chùa Chia-cu Tây rồi.” Nói dứt lời, 2 vị lạt ma nhấc chân đi ngay. Tất cả kỵ sĩ thõng 2 tay đứng thẳng, nhìn tiễn 2 vị lạt ma gậy sắt. Chỉ có tướng cướp Chia-ma-chua với đôi mắt sắc như dao đăm đăm nhìn 2 hàng dấu chân của 2 vị lạt ma càng đi càng nhanh đang in trên tuyết.
 

ohcuey

Member
7 đứa trẻ Ama Thượng đang chơi trò “khúc xương dê” trong động Mật Linh. Chúng ngồi thành 1 vòng tròn, đặt tên các con vật cho 21 khúc xương. Thằng bé mặt sẹo vứt 21 khúc xương lên cao rơi xuống để mọi người cướp. Mỗi người chỉ được cướp 3 khúc. Nhưng khúc xương dê hình dáng đều giống nhau, không ai biết mình sẽ cướp được con gì. Ai cướp được Ngao Tạng sẽ được làm chủ, được dùng xương dê của mình đánh xương dê đối phương, nếu đánh trúng lại được đánh tiếp, nếu không trúng sẽ bị người khác đánh. Thường thì ai cướp được Ngao Tạng, bò rừng và ngựa sẽ thắng cuộc, vì trong quy tắc của trò chơi, ai cướp được Ngao Tạng, bò rừng và ngựa được phép đánh tất cả các con thú, còn sói, gấu, báo, dê, cáo, thỏ, rái cá, chuột… đều bị hạn chế. Ví dụ sói đánh Ngao Tạng, dù có đánh trúng cũng không được tính điểm. Chơi trò chơi này, mấu chốt là cướp được con gì. Đã cướp thì phải tranh nhau, đẩy nhau, hệt như những con cún đùa nghịch đánh nhau vậy. Ngày nào bọn trẻ cũng chơi trò này, chơi mãi không chán.

Khi bọn trẻ mải chơi thì Cang-rư-sân-cơ lẳng lặng đi ra khỏi động Mật Linh. Ngao đen Na-rư cũng định đi theo thì Tạng y Tô-y-thê ngăn lại: “Na-rư không được ra ngoài. Mắt của con bị thương chưa khỏi hẳn, không thể để gió thổi vào, lại càng không được để tuyết chiếu vào làm lóa mắt.”

Cang-rư-sân-cơ vừa ra ngoài hang, đi được vài bước là bắt đầu chạy. Nó cảm thấy rất dễ chịu. Tập tính của nó vốn là tìm cái ấm áp từ trong tuyết lạnh, chạy như điên trong gió. Núi tuyết Ang-la cao và giá rét thật hợp với tập tính của nó. Nó chạy xung quanh, càng chạy càng nhanh, vừa chạy vừa dùng mũi ngửi trong tiếng gió ào ào. Bỗng nó dừng lại. Trong không khí phản phất 1 mùi gì là lạ khiến nó khựng 1 cái. Mùi đó không phải mùi chồn sóc tuyết mà 2 ngày qua nó bắt, mà là mùi gây gây rất nặng của sói. Mà không chỉ có mùi sói, còn có cả mùi chó. Lạ nhỉ? Sao mùi sói và mùi chó lại lẫn vào nhau?

Nó quay đầu lại nhìn động Mật Linh, thấy tình hình khẩn cấp quá, nó không nhất thiết phải được sự đồng ý của chủ nữa. Nó nhảy lên và chạy. Lần này nó không chạy vòng quanh mà chọn con đường ngắn nhất chạy đi. Nó chạy ra ngoài thung lũng Mật Linh, chạy qua 1 đồi tuyết thoai thoải, rồi chạy đến 1 cái dốc băng thoáng rộng.

Lúc này Cang-rư-sân-cơ không chỉ hành động theo chi phối của khứu giá. Thính giác và thị giác của nó đã phát huy tác dụng. Nó nhìn thấy con sói tuyết cái đứng trên mỏm tuyết, nghe thấy tiếng hú sắc nhọn cảnh báo của nó. Ngay lúc đó, nó nhìn thấy bạn của sói tuyết cái, 2 con sói tuyết đực dưới sự cám dỗ của mồi ăn đã quên hết tất cả. Mồi mà chúng định ăn thịt là con của 1 con Ngao Tạng nào đó, 1 con cún trắng.

Cang-rư-sân-cơ phát điên. Nó chạy theo kiểu nhảy xa 3 bước, vừa chạy vừa sủa đe dọa. Từ ngày nó đến thảo nguyên Chia-cu Tây, chưa bao giờ nó lại chạy 1 cách điên cuồng như vậy. Tiếng sủa đe dọa khiến 2 con sói đang định cắn xuống cún trắng ngừng lại. Chúng giật mình ngẩng đầu lên, theo phản xạ lùi về sau 1 chút.

Cún trắng Ca-ca nằm bẹp dưới đất, kêu không thành tiếng. Sự biểu hiện của nó hệt như tất cả những sinh vật khi ý thức được cuộc sống của mình sắp kết thúc, Ca-ca chúi đầu vào 2 chân trước đã vòng lại, nhắm mắt. Nó đã sớm đi vào trạng thái “chết” trước khi sự đau đớn do răng sắc cắn vào xuất hiện.

Dòng máu vừa tươi vừa ấm, thịt vừa ngon vừa ngọt, mỡ thơm béo ngậy, xương giòn tan, đấy là những thứ con vật bé nhỏ này có thể cung cấp cho bữa ăn của sói. Có lẽ mê muội vì sức hút của thức ăn, tuy nghe tiếng hú cảnh báo của sói cái nhưng 2 con sói đực chưa chạy trốn ngay. Chúng do dự mấy giây. Chính cái tích tắc do dự đó đã quyết định số phận của chúng. Chúng phải chết. 1 con chết ngay lúc đó, con kia chết ngày hôm sau. Con sói chết vào ngày hôm sau là con chạy trốn trước tiên, nhưng không kịp nữa. Tốc độ của Cang-rư-sân-cơ nhanh như chớp, mạnh như vũ bão, thoáng cái đã đến. Răng nanh nhọn sắc của sư tử núi tuyết đã cắm phập vào sau gáy sói rồi rút ra. Máu sói phun ra như suối. Con sói đực quay đầu lại định cắn Cang-rư-sân-cơ. Cang-rư-sân-cơ lấy đầu húc, tuy cũng bị răng sói xé toạc 1 miếng da, nhưng con sói đã bị húc lăn ra xa 2 mét. Con sói tuyết loạng choạng đứng lên, chạy được mấy bước rồi kêu thảm 1 tiếng ngã xuống, nằm đó đến tận hôm sau, máu chảy hết khiến nó trút hơi thở cuối cùng. Nó không bao giờ đứng dậy được nữa.

Con sói chết ngay lúc đó thì chạy được hơn 20 mét. Nó định nhảy lên mỏm tuyết cùng con sói cái đối phó với Cang-rư-sân-cơ. Nhưng nó không ngờ, bạn nó, con sói tuyết cái đã lấy đầu húc nó ngã lăn xuống chân mỏm tuyết, khiến nó nằm lăn kềnh, hở cái bụng mềm mại không lông của nó ra. Cang-rư-sân-cơ đuổi đến vồ vào vật lộn với nó. Đúng là 1 cảnh “3 nắm đấm đánh chết Trấn Quan Tây” của Lỗ Trí Thâm trong Thủy Hử. Cang-rư-sân-cơ hất đầu dùng răng nhọn kéo ruột con sói ra, lại lấy răng xỉa vào pín sói hất cái của quý đó lên trời, cuối cùng cắn phập vào sau gáy sói, dùng chính máu sói bịt kín đường không để linh hồn sói thoát ra ngoài.

Sau đó nó quay lại nhảy lên mỏm tuyết định giải quyết luôn con sói cái. Sói cái đã chạy mất hút. Nó dùng hành động đẩy bạn từ trên đỉnh mỏm tuyết xuống để giành lấy chút thời gian cho mình chạy trốn. Thật là bỉ ổi, thật là ti tiện, cũng thật không kém phần trí tuệ. Bất kể là ti tiện hay trí tuệ cũng đều là biểu hiện của thiên tính của sói tuyết, là thủ đoạn sinh tồn của chúng. 1 con sói tuyết cái từng trải, kinh nghiệm phong phú, mãi mãi là 1 kẻ vị kỷ cực đoan, xảo trá nham hiểm. “Sói đạo” trên thảo nguyên là như vậy.

Hệt như cha tôi đã nói với tôi từ lâu, loài sói mềm nắn rắn buông. Thấy ai yếu thế thì bắt nạt, ai mạnh hơn thì nhún nhường. Thường nó không thích gây chiến với thế lực bằng hoặc hơn mình. Ngao Tạng thì khác. Để bảo vệ chủ nhân và nhà cửa, gia súc, dù đối thủ có mạnh đến đâu nó cũng dám đối đầu, chết cũng không sợ. Suốt đời sói chỉ làm những việc tổn hại đến kẻ khác, suốt đời Ngao Tạng chỉ giúp đỡ người khác. Cách hành xử của sói là giữ lấy thân mình, của Ngao Tạng là xả thân vì nghĩa; Sói ích kỷ tư lợi, Ngao Tạng chí công vô tư; Sói chiến đấu chỉ vì mình, cùng lắm là vì con cái, Ngao Tạng chiến đấu vì người khác, vì bạn bè, vì chủ nhân; Sói dĩ thực vi thiên, sống chỉ vì miếng ăn, Ngao Tạng dĩ đạo vi thiên, sự chiến đấu của nó vượt xa nhu cầu ăn uống thấp hèn, mà là vì trung thành, nghĩa khí, nhiệm vụ. Mục đích sinh tồn của sói trước hết là bảo vệ bản thân, mục đích sinh tồn của Ngao Tạng là bảo vệ người khác. Sự tồn tại của sói đồng nghĩa với sự tồn tại của rắc rối, khiến người khiếp sợ. Sự tồn tại của Ngao Tạng là sự tồn tại của an ninh, khiến người ta yên tâm. Sói động một tí là trở mặt, thậm chí phản bội cả đàn, người ta nói “sói mắt trắng” là chỉ điều đó. Ngao Tạng không như thế. Nó suốt đời chung thủy với tất cả những ai từng đối tốt với nó.

Cang-rư-sân-cơ đứng trên mỏm tuyết. Nó ngẩng đầu lên thở mạnh, nhăn mũi đánh hơi xung quanh. Nó đánh hơi thấy sói tuyết cái đã chạy trốn và khe núi tuyết hướng Tây Bắc. Theo bản tính, nó sẽ truy đuổi đến cùng. Nhưng 1 bản năng mạnh mẽ hơn khiến nó không đuổi, lại nhảy xuống mỏm tuyết, chạy đến bên cạnh cún trắng. Nó ngửi ngửi lông cún trắng, thè lưỡi liếm cái chân bị gãy đang đầm đìa máu cho cún trắng. Thấy cún trắng vẫn nằm yên bất động, nó vội cắp cún trắng chạy xuống dốc núi tuyết, chạy qua đèo núi thoai thoải, chạy vào thung lũng Mật Linh. Bỗng nhiên nó phát hiện ra ở đây đã xảy ra chuyện rồi, không còn yên bình nữa.

Tướng cướp Chia-ma-chua phi ngựa đến dưới vách núi điêu sào nhìn lên. Tiếng kêu vui vẻ của đàn tuyết điêu bao phủ trên đầu hắn như cơn mưa sấm rền trong mùa hè. Nhìn thấy vô vàn những con tuyết điêu vừa kêu vừa vỗ cánh, lông vũ bay như bông tuyết. Lông vũ của chúng bay về núi tuyết gần đó, trên đỉnh núi hằn rõ dấu chân của 2 vị lạt ma gậy sắt. Chia-ma-chua cảm thấy lạ. Sao 2 vị lạt ma lại đi từ trên đỉnh núi tuyết xuống? Hắn dắt con ngựa đi về phía có ngọn núi lớn chạy theo hướng đông tây. Đang đi thấy đỉnh núi bỗng từ đằng sau rơi xuống, tạo thành 1 thung lũng ngầm chạy theo hướng Nam Bắc. Thung lũng như 1 cái thìa vừa sâu vừa lớn gắn trong dãy núi băng đá trùng điệp. Tướng cướp Chia-ma-chua sau những phút kinh ngạc vội quay người gọi đoàn kỵ sĩ đằng sau: “Mau, mau lại đây!” Vừa gọi được 1 câu, hắn vội im bặt. Phải khe khẽ, khe khẽ. Hắn ý thức được có thể 7 đứa trẻ Ama Thượng và Cang-rư-sân-cơ được giấu tại đây, không thể để có 1 tiếng động nào.
Tướng cướp Chia-ma-chua dẫn đoàn kỵ sĩ lặng lẽ không 1 tiếng động lần theo dấu chân 2 vị lạt ma đi lên.
 

ohcuey

Member
Chính Ngao đen Na-rư phát hiện ra đoàn kỵ sĩ trước. Nó đánh hơi thấy rồi nghe thấy. Khi tướng cướp Chia-ma-chua gọi “Mau lại đây!” nó đã nghe thấy rồi. Về mặt này, nó nhanh nhạy hơn cả Cang-rư-sân-cơ. Nó nhận biết được tiếng và hơi của người bộ lạc. Từ bên cạnh Tạng y Tô-y-thê nó đứng lên, vui mừng vẫy đuôi. Đang vẫy, bỗng nó cảm thấy có gì đó không ổn. Sao trong lòng nó lại có cảm giác căng thẳng, có 1 cái gì đó như là sự đối địch? Chẳng lẽ người bộ lạc thảo nguyên Chia-cu Tây lại có thái độ thù địch? Nó nhìn 7 đứa trẻ Ama Thượng đã cùng nó sớm tối có nhau, lại nghĩ đến Cang-rư-sân-cơ đang chạy nhảy trong gió tuyết. Hình như nó đã hiểu ra. Nó không vẫy đuôi nữa. Như thong báo điều gì đó, nó “gâu” 1 tiếng về hướng bên ngoài động Mật Linh, rồi lại hướng về Tạng y Tô-y-thê khẽ “gâu” 1 tiếng nữa. Tạng y đang xếp bằng ngồi thiền, nhưng vẫn tóm chính xác tai Ngao đen Na-rư, điều này chứng tỏ tuy Tạng y mắt vẫn nhắm nghiền, nhưng kỳ thực cái gì cũng biết. Na-rư liền kéo Tạng y về phía cửa hang. Tô-y-thê đứng dậy nói: “Na-rư, con làm gì vậy? Ta đã nói rồi, mắt con chưa lành hẳn, không thể để gió thổi, nắng hắt vào.”

Na-rư dùng tiếng sủa ngắt lời Tô-y-thê, cố giằng để chạy ra ngoài hang. Tô-y-thê vội chạy theo. Na-rư đứng ở cửa hang, hướng về thung lũng sủa mãi. Tiếng sủa không lớn, nhưng nghe có vẻ nôn nóng lắm, sự nôn nóng không phải phẫn nộ, cũng không phải hân hoan. Tô-y-thê nghĩ chắc Na-rư đã phát hiện ra điều gì rồi. Nếu là kẻ địch, nó sẽ vồ cắn, nếu là bạn đến thì sẽ vồ vập vui mừng. Cái mà khiến Na-rư chỉ sủa mà không cắn, cũng không vồ vập là gì nhỉ? Tô-y-thê trèo lên 1 gò tuyết nhìn ra xa rồi quay lại nói với Na-rư: “Có gì đâu, Na-rư?” Nhưng tiếng sủa của Na-rư vẫn tỏ ra bồn chồn lo lắng. Tạng y lại trèo lên 1 cái gò tuyết cao hơn. Trong ánh sáng phản chiếu chói mắt của tuyết, Tô-y-thê ngheo mắt nhìn kỹ, phát hiện dưới thung lũng Mật Linh phủ tuyết trắng xóa có 1 dãy chấm đen di động. Thoáng nhìn thì tưởng thú rừng, nhìn kỹ ông nhận ra là người cưỡi ngựa. Tô-y-thê quay về hang, nói với Na-rư: “Về đi, về đi. Mắt trái của con gặp gió là chảy nước mắt, làm sao vết thương lành được.” Ngao đen Na-rư thấy nét mặt Tạng y chẳng căng thẳng tí nào, nó không sủa nữa, lại vẫy đuôi theo ông về hang.

Thực ra trong lòng Tô-y-thê như có lửa đốt. Cuối cùng Tô-y-thê ra 1 quyết định vượt quá bổn phận của mình, nói với 7 đứa trẻ Ama Thượng: “Các cháu yên lặng nào, không chơi nữa, ra cả đây nghe ta nói.” 7 đứa trẻ vây quanh ông. Tô-y-thê nói: “Các cháu mau đi đi, mau rời khỏi đây, rời khỏi thảo nguyên Chia-cu Tây. Hãy về thảo nguyên Ama Thượng của các cháu đi. Có người đến bắt các cháu rồi.”

7 đứa trẻ đồng loạt lắc đầu. Thằng bé mặt sẹo nói: “Rời khỏi thì rời khỏi thôi, người của thảo nguyên Chia-cu Tây đòi chặt tay chúng cháu mà. Nhưng chúng cháu nhất quyết không về thảo nguyên Ama Thượng đâu. Kiếp này, kiếp sau, kiếp sau nữa, mãi mãi cũng không về nơi đó.” Tô-y-thê hỏi: “Tại sao? Thảo nguyên Ama Thượng là quê hương của các cháu kia mà? Sao lại không về?” Thắng bé mặt sẹo nói: “Thảo nguyên Ama Thượng có nhiều quỷ đầu lâu, nhiều ma ăn tim người, nhiều gái cướp hồn. Chúng cháu không về đâu, chúng cháu đến Cang-ching-chuô-chi.” Tạng y Tô-y-thê biết “Cang-ching-chuô-chi” người Hán gọi là “núi tuyết Hải Sinh” hoặc “Vô lượng sơn”, ông hỏi bọn trẻ: “Cang-ching-chuô-chi” ở đâu?” Thằng bé mặt sẹo lắc đầu. Thằng bé đầu to nói: “Ở trên biển.” Thằng bé mặt sẹo nói theo: “Đúng ạ, ở trên biển.” Tô-y-thê lại hỏi: “Biển ở đâu?” Mặt sẹo lại nhìn đầu to nói: “Ở đằng sau núi tuyết.” Tô-y-thê nói: “Đằng sau núi tuyết vẫn là núi tuyết thôi. Ta bảo cho các cháu biết, biển chỉ có ở những nơi không có núi, nơi địa hình thấp. Thôi các cháu mau đi đi, có người đến bắt các cháu rồi.”

Tạng y Tô-y-thê đẩy 7 đứa trẻ ra đến ngoài cửa hang. Thằng bé mặt sẹo nhìn quanh rồi gọi: “Cang-rư-sân-cơ! Cang-rư-sân-cơ!” Lúc này Na-rư khẽ sủa. Người và chó cùng lúc nhìn thấy đoàn kỵ sĩ như đàn kiến đang ở dưới thung lũng. Họ đang đến gần, nhưng hình như vẫn chưa phát hiện ra. 7 đứa trẻ Ama Thượng trở nên căng thẳng. Tô-y-thê nói: “Cái con Cang-rư-sân-cơ này, đi đâu chứ? Thôi các cháu đi trước đi, không đợi được nữa. Mau đi đi.” Nói xong Tạng y Tô-y-thê chỉ về phía sau động Mật Linh.

Sau động Mật Linh là 1 cái dốc bằng đá. Tuy hơi dốc nhưng vẫn có thể trèo lên được. 7 đứa trẻ bò lên. Dốc băng cứng không để lại dấu chân. Tạng y Tô-y-thê thấy thằng bé mặt sẹo và đầu to vừa đi vừa quay đầu lại tìm Cang-rư-sân-cơ thì lấy tay ra hiệu: “Mau đi đi, đi thật xa vào, càng xa càng tốt, đừng bao giờ về đây nữa.” Na-rư nhìn bọn trẻ vẫy đuôi. Tạng y Tô-y-thê cúi xuống vỗ vỗ Na-rư nói: “Mau, chúng ta cũng phải trốn thôi.”

1 người 1 chó đi vào trong hang. Lúc này những tiếng kêu từ dưới thung lũng vọng lên. Các kỵ sĩ đã nhìn thấy họ rồi. Tiếng kêu hú của kỵ sĩ hệt như chó chăn cừu phát hiện ra sói và sủa vang lên.
 
Top