Tạm dịch một phần, câu cú hơi lỉnh kỉnh vì không chuyên nghiệp lắm. các bác thông cảm nha
Nguồn gốc bài báo được dịch từ những thông tin viết ở Thái bởi Mr. Anusorn Supmanue. Nguồn gốc bài báo này là sự mô tả tốt nhất với tư cách là một khách du lịch với tường thuật của một người đầu tiên. Theo cách nhìn hàn lâm, nhật ký cá nhân này có thể không có tính hiệu lực của một nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, nó là một nguốn quan trọng bởi vì đó là thông tin mô tả từ sự quan sát trực tiếp. Hầu hết chúng ta chưa có cơ hội đến thăm đảo Phú Quốc Việt Nam, thông tin này là sự mô tả vô giá .
Trong bản dịch về bài báo của tôi, tôi tránh việc dịch từng từ một. Tuy thế, tất cả những thông tin cốt yếu từ nguyên bản bài báo đều được thể hiện ở đây. Tôi cũng quyết định giới thiệu bản dịch này trong một tường thuật cá nhân thứ ba bởi vì không có lý do nào hơn thực tế rằng tôi cảm thấy thoải mái hơn việc diễn tả cho bất kỳ ai ? giọng nói từ cách nhìn này. (hơi chuối)
Điểm dừng đầu tiên: Hồ Chí Minh
Sau khi nhận được visas đến Việt Nam, Mr. Supmanue và người bạn lên chuyến bay từ Bangkok, Thái Lan đến tp. Hồ chí minh vào năm 1990. Chuyến bay mất 1h50’. Một lần ở Tp. Hồ Chí Minh, chỗ nghỉ của quý ông ở khách sạn để xắp xếp bay đi Phu Quốc. May mắn thay, tôi gặp một người Việt, anh ta không chỉ biết cách tới Phú Quốc mà còn là một chuyên gia ở vùng này. Anh ta được thuê và thêm vào tua du lịch với giá xấp xỉ 20$. Giống như một đội, chúng tôi lên một máy bay hai mươi chỗ hai canh quạt và bay nửa giờ tới Phú Quốc. Mỗi tuần chỉ có một chuyến bay tới Phú Quốc.
Đảo Phú Quốc vào năm 1990 có dân số khoảng 50 ngàn người. Đầu tiên nhóm làm quen với những người lãnh đạo địa phương, họ giới thiệu những hướng dẫn viên địa phương để gíup đỡ và khám phá nơi này. Chuyến du lịch đi xuyên qua hòn đảo không dễ dàng. Toàn đảo chỉ có ba xe hơi và bảy xe tải, bốn trong số đó không dùng cho việc phục vụ. Không cần phải nói, đội phải khám phá nơi đây bằng việc đi bộ. Sự khám phá này mất bốn ngày và ba đêm.
Đội chúng tôi đã quan sát rất nhiều chó xoáy lưng (Thai Ridgeback Dogs), hầu hết chúng được tập trung ở một chợ giống như “đường phố Bangkok”. Hầu hết chúng có xoáy lưng kiểu hình mũi tên Ơarrow-like). Chó ở Thái có xoáy lưng xếp vào tám kiểu chính: hình kim (1- Needle Pattern), hình bàn tay chúa (2-Hands-in-Prayer hay hình long), hình đàn lute (hoặc hình quả lựu – Lute), hình đàn Violin (4 - Violin Pattern), hình yên ngựa (5 -Horse Saddle Pattern), hình mũi tên (6-arrow pattern), hình quả đa (7- Pipal Tree Leave Pattern), hình bowling (Bowling Pin Pattern) (sách Bankitsophon, trang.54). Như đã nói ở trên, hình mũi tên được liên tưởng đến những con chó có chất lượng cao nhất trong giới hạn của sự thuần chủng và ưa thích.
Trong suốt thập kỷ 1960-1970, chiến tranh đã làm tổn hại nghiêm trọng đến chó ở Phú Quốc. Rất nhiều người lính Bắc Việt bị bắt giữ và chuyển ra đảo như những tù nhân ở Phú Quốc. Với những người tù, thức ăn trên đảo là chó và một số loại động vật có vú khác. Do đó, giống chó này bị thu nhỏ lại một cách đáng kể. Thêm vào đó, sự thuần chủng của giống chó này cũng bị ảnh hưởng. Những người lính Mỹ đã mang những con chó chăn cừu Đức đến để canh giữ những người tù trên đảo. Những con chó này đã lai tạo với giống chó địa phương tới mức mà giòng lai tạo này này vẫn xuất hiện ở Phú Quốc ngày nay. Tuy nhiên, Mr. Supmanue lưu ý rằng dù bị ảnh hưởng trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, dân số và sự thuần chủng của chó trên hòn đảo này vẫn vượt trội hơn chó xoáy ở Thái Lan. Ở Thái Lan, các nòi giống nước ngoài đã được đưa vào bởi người Châu Âu hay nhập khẩu bởi những người Thái giàu có từ thời Rattanakosin hơn 200 năm trước. Những giống thời đó, một lần hay nhiều lần, sáng lập con đường của họ cho dân số chó xoáy Thái và lai giống với chó bản xứ (?). Do đó, rất nhiều những con chó ở Thái Lan không còn thể hiện được những đặc tính nguyên bản cổ xưa nữa. Thực tê, Mr. Supmanue mô tả chó ở Phú Quốc đã khác chó Thái theo những cách sau:
- chó ở Phú Quốc lớn hơn,
- chúng mang một cái đuôi hấp dẫn (ví dụ hình kiếm được ưa thích),
- chúng có ngực sâu hơn.
- Lông dài mảnh hơn.
- Có mũi đen
Nói tóm lại, đội của Mr Supmanue đã phát hiên rằng rất nhiều chó xoáy ở Phú Quốc với nòi giống ưu tú hướng đến chó Thái cổ xưa nguyên bản.
Như đã nói ở trên, xe moto rất khan hiếm ở trên đảo. Rất nhiều người sinh ra ở đây đã đi từ nơi này đến noi khác trên đôi chân. Theo cách đó, săn bắn trên đảo tự nhiên được tiến hành trên đôi chân. Một cuộc săn bắn tự nhiên hiếm có cơ hội chạm trán với hổ, nhưng người dân con thú sợ hãi nhất là lợn rừng (ví dụ: lợn lòi đực). Để giảm thiểu các mối nguy hại từ săn bắn, một đàn bốn tới năm con chó xoáy thường được dùng để giết lợn lòi. Một con lợn lòi khỏe mạnh là quá mạnh thậm chí với cả một đàn chó. Vì thế, để có mặt trong cuộc săn, những người thợ săn muốn chỉ huy cuộc săn vào lúc bình minh trong mùa khô. Trong thời gian này những hố nước trở nên khô cạn, vì thế, lý do những con lợn lòi trở nên ít năng động và dễ bị tổn thương hơn dẫn đến mệt mỏi.
Khi chiến tranh Việt Nam, rất nhiều vùng săn bắn cho phép sử dụng súng M-16. Vậy tại sao họ cần chó để đi săn? Săn bắn với M-16 thường yêu cầu người thợ săn săn nhanh hơn và khó khăn hơn với lợn lòi vào ban đêm. Không may thay, nhiều người không có đèn chuyên dụng cần thiết để săn đêm. Vì vậy, M-16 chỉ sử dụng như là một tín hiệu để gọi những con chó bắt đầu cuộc săn. Sự việc thực tế, khi người thợ săn bắn súng lên trời, những con chó thường chạy hăng hái để săn.
(còn nữa)