• Chào mừng bạn Khách đến với diễn đàn, chúc bạn vui vẻ sinh hoạt cùng cộng đồng Vietpet.
    Diễn đàn đã có sẵn cơ sở dữ liệu tương đối lớn về các vấn đề thường gặp như thú y, huấn luyện, chăm sóc thú cưng..., bạn Khách vui lòng tìm đọc kỹ trước khi gửi câu hỏi.
    Lưu ý: Diễn đàn không chấp nhận ngôn ngữ chat, bài viết không có nội dung ( bài spam).

Chó Ngao Tây Tạng (tiểu thuyết)

ohcuey

Member
Tặng các bạn nào yêu thích Ngao Tạng nhé :)

CHÓ NGAO TÂY TẠNG

Tác giả: Vương Chí Quân
Người dịch: Ngô Thái Quỳnh

Lời tựa: Con Ngao Tạng của cha​

Tất cả đều bắt nguồn từ nỗi niềm thương nhớ da diết đối với cha tôi, cũng như với những con Ngao Tạng.

Năm tôi lên 7, cha tôi đem 1 con Ngao Tạng từ thảo nguyên Ngọc Thụ – thuộc địa phận Tam Giang cho anh em chúng tôi. Cha nói, Ngao Tạng là của báu của dân Tây Tạng, chúng giỏi lắm, các con hãy nuôi nó khôn lớn. Khổ nỗi, cún Ngao Tạng rất lạnh nhạt thờ ơ với anh em tôi, chẳng bao giờ thấy nó chịu lắc đầu vẫy đuôi. Hai anh em tôi đem nó đổi lấy 1 con chó Nhật. Cha giận lắm, nhưng cũng không bắt chúng tôi đổi nó về. 2 ngày sau, cún Ngao Tạng tự tìm đường chạy về. Cha tôi cười hể hả nói: “Thấy chưa? Cha biết mà, thế nào nó cũng về. Đấy gọi là lòng trung thành, biết chưa?”
Đang tiếc là chúng tôi vẫn không thích cún Ngao Tạng không biết lắc đầu vẫy đuôi này. Cha thở dài rồi đem nó về thảo nguyên.

Thế mà chớp mắt đã 14 năm trôi qua. Trong 14 năm đó, tôi đi lính, rồi phục viên, học đại học, sau đó trở thành phóng viên của tờ “Nhật Báo Thanh Hải”. Lần đầu tôi xuống khu chăn nuôi viết bài, gần đến vọng gác của bà con Tây Tạng, xa xa, một con Ngao Tạng to và đen thui, thấy tôi đã định vồ tới. Bốn chân nó đập vào mặt đất ầm ầm vang như tiếng trống. May sao nó bị xích bằng một cọc gỗ chôn chặt dưới đất. Thế mà cái cọc gỗ bị nó kéo đến lung lay như sắp bật ra khỏi mặt đất. Tôi hoảng hốt đứng như trời trồng không còn biết làm gì nữa, bất động, vô cảm.

Nhưng cách tôi chỉ còn 2 bước, con Hắc Ngao không vồ nữa. Tôi nhiên nó dừng lại, ngồi xuống, nhìn tôi chằm chằm. Chú Gia người Tây Tạng chạy ra và cho tôi biết, con Hắc Ngao đó chính là con Ngao Tạng đã đến nhà tôi 14 năm trước. Nó đã nhận ra tôi.

Từ đó, tôi nảy sinh tình cảm với Hắc Ngao. Tôi chỉ nuôi nó 1 tháng, 14 năm sau, nó vẫn coi tôi là người thân. Làm chủ nó một ngày, nó nhớ anh suốt đời. Cho dù nó chỉ là con chó, như thế cũng đủ để tôi cúi người kính trọng. Sau khi Hắc Ngao uy phong hùng tráng như con sư tử đen chết đi không lâu, tôi trở thành phóng viên thường trú tại Tam Giang suốt 6 năm. Trong 6 năm sống ở thảo nguyên, tôi đã gặp rất nhiều Ngao Tạng. Dù chúng có hung hẵn đến mấy, nhìn thấy tôi đều không nhe răng vồ, nên tôi có cảm giác chúng và tôi đã quen biết từ lâu. Thoạt tiên chủ của chúng cũng cảm thấy lạ, nhưng khi biết tôi là ai thì họ lại vỡ lẽ. Họ nói: trên người anh có mùi của cha anh đấy. Trời sinh ra lũ chó là chúng đã nhận biết anh rồi.

Trong 6 năm đó, cha và con Ngao Tạng mà cha đem từ Ngọc Thụ về cùng sống trong thành phố, còn tôi sống trên cao nguyên, sống giữa những huyền thoại về cha tôi và những con Ngao Tạng của ông. Cha tôi sống trên thảo nguyên bao la này gần 20 năm. Ông đã từng là phóng viên, dựng trường dạy học, viết văn, cũng đã từng làm lãnh đạo. Trên thảo nguyên còn lưu truyền rất nhiều câu chuyện về ông và những con Ngao Tạng; không hoàn toàn như tôi miêu tả trong tiểu thuyết, nhưng cũng không kém phần ly kỳ hấp dẫn. Cha tôi bất kể đảm nhận công tác gì, trong nhà lúc nào cũng nuôi vài con Ngao Tạng, hơn nữa lại là Ngao Tạng cái, “vừa đẹp người vừa đẹp nết”.

Những con Ngao Tạng đẻ hết lứa này đến lứa khác, cha đem biếu những ai yêu thích và cần đến chúng. Chính vì vậy những con Ngao Tạng quen biết cha tôi và cha cũng quen chúng. Khắp trên thảo nguyên vùng Tam Giang đều có chó mà cha tôi từng nuôi qua.

Một cán bộ Tây Tạng nói với tôi: “Trong “đại cách mạng văn hoá”, phe phái ông ta muốn lôi cha tôi ra đấu tố, nhưng bàn nát óc 4 đêm mà không dám ra tay, vì sợ những con Ngao Tạng của cha tôi phục thù. Tôi mừng cho cha tôi, mừng cho chính mình, chính vì có những con Ngao Tạng thông minh, có linh tính, oai phong uy vũ này khiến tôi nhìn rõ cha tôi, cũng như nhìn rõ chính bản thân mình. Tôi có “gen” của cha tôi, hay nói đúng hơn, tôi rất giống cha.

Suốt 6 năm thường trú tại Tam Giang, gen của cha tôi luôn phát huy tác dụng, khiến tôi rất tự nhiên hoà mình vào thảo nguyên như chính cha tôi đã hoà mình vào. Tôi sống hoàn toàn như 1 người dân Tây Tạng thực thụ. Trong thời gian đó, tôi rất ít khi ở thị trấn Kết-cô, nơi đặt văn phòng của Châu uỷ, mà cắm rễ tại thảo nguyên Tra-tô Chiu-ma-lai và thảo nguyên Lan-chiên của người Khang-ba, một vùng sâu vùng xa của thị trấn. Có lúc tôi ở nhà của chủ nhà trước đây cha tôi từng ở, lúc thì ở trong lán vải của dân du mục, hoặc ở trong khu xá phật tăng trong chùa. Ngày nào tôi cũng thấy những con Ngao Tạng mà giờ đây ngày càng hiếm, và tôi trở thành bạn của chúng. Tôi mặc áo dân tộc Tạng, cưỡi con ngựa cao to, tham gia tất cả các hoạt động sản xuất của dân du mục, cũng như lễ tết hội hè, và các hoạt động cùa nhà Phật. Tôi hoà mình vào dân du mục, uống rượu bằng bát, ăn những tảng thịt nướng, cùng đi chăn súc vật, cùng cho chó ăn, cùng họ hàng huyên chuyện gia đình, giúp họ giải quyết những khúc mắc giữa mẹ chồng nàng dâu, giữa làng xóm. Phóng viên thời đó, đặc biệt là phóng viên công tác tại vùng du mục xa xôi, khối lượng công việc không lớn. Cứ 1-2 tháng viết 1 bài phóng sự là coi như làm tròn bổn phận. Bởi thế tôi có thời gian để toàn tâm toàn ý làm những việc mình muốn. Tôi thường cưỡi ngựa, dát theo con Ngao Tạng của chủ nhà hay của nhà Chùa, phi ngựa đến những vùng thảo nguyên xa lắc xa lơ, rồi cùng dân du mục uống rượu say mềm trong lán. Lý tưởng của tôi lúc đó là: lấy 1 cô vợ Tây Tạng, nuôi 1 đàn có Ngao như cha tôi. Mùa đông thì ở trong ngôi nhà ấm áp, ăn thịt, uống rượu, mùa hè đi chăn dê chăn ngựa. Hoà hoằn nếu muốn mạo hiểm thì dắt những con Ngao Tạng vào tận rừng sâu núi thẳm đầy tuyết để săn bắn. Tôi cố gắng thực hiện ước mơ của tôi, hầu như quên bẵng mình là 1 phóng viên thường trú.

1 lần do uống quá nhiều rượu lúa mì thanh khoa, một loại rượu đặc sẳn của vùng Tây Tạng, tôi say tuý luý. Nửa đêm dậy đi tiểu, gặp phải gió, tôi nôn thốc nôn tháo. Con Ngao Tạng canh đêm theo chân tôi, chén sạch những thứ tôi vừa nôn ra. Thế là nó cũng say mềm, lăn ra bên cạnh. 2 chúng tôi ôm nhau ngủ say trên bãi cỏ cạnh lán. Hôm sau khi còn mơ màng, tôi vuốt ve con Ngao Tạng và nghĩ: ai nằm bên cạnh mình đây? Là anh chủ nhà Tai-chi-tung-chu sao? Ồ, sao người anh ta nhiều lông vậy?

Chuyện này trở thành giai thoại trên thảo nguyên. Các cô gái thấy tôi đều cười khúc khích. Bọn trẻ thấy tôi thì kêu lên: “Mọc lông rồi! Mọc lông rồi!” Sau này khi giới thiệu tôi, người ta không nói là phóng viên nữa, chỉ nói: “Đấy, người mà cùng uống say với con Ngao Tạng, nói ông Tai-chi-tung-chu mọc lông đấy.” Dân du mục mời tôi đến nhà chơi, đều nói: “Đi nào, đi uống với con Ngao Tạng nhà tôi một bát đi!”

Những ngày đó, hễ ai mời tôi đều đến chơi. 1 năm vào mùa hè, tôi đến nhà Tô-ran ở xã kết long chơi. Mới ở có 1 tuần mà con Hắc Ngao đã có tình cảm sâu đậm với tôi, đến nỗi không thấy tôi 1 ngày là nó đi khắp thảo nguyên tìm cho bằng được, khiến tôi cứ đoán già đoán non, phải chăng nó đã từng được cha tôi nuôi? Mấy năm sau, tôi rời thảo nguyên, xuất phát từ Kết Long. Con Hắc Ngao thấy tôi mang hành lý ngồi vào ôtô, nó biết đây là một chuyến ly biệt dài, bèn xông vào vồ cắn chiếc ôtô đến chảy máu răng. Trong suy nghĩ của nó, tôi chỉ là bất đắc dĩ phải chia tay với nó, mà nguyên nhân chính là chiếc ôtô chết tiệt kia. Sau đó tôi được nghe kể lại, sau khi tôi đi rồi, con Hắc Ngao bỏ không ăn uống suốt 1 tuần, nằm bẹp dí dưới đất như chết. Dường như toàn bộ sinh khí và ý niệm sống của nó đã theo tôi đi hết. Chủ nó hết cách đành phải giết 1 con dê, bứt ít lông sói từ miếng da sói dính vào con dê chết, vứt trước mặt nó quát: “Mày trông đàn dê thế này à? Sói cắn chết dê rồi mà mày cũng không để mắt đến. Tao nuôi mày làm gì chứ? Xem này, xem này, thấy lông sói chưa? Sói đâu? Còn không mau đi tìm!” Con Hắc Ngao bị kích thích mạnh. Giờ đây trên thảo nguyên còn rất ít sói, gần 1 năm nay nó chưa cắn được con sói nào. Không ngờ trong lúc tình cảm của nó bị tổn thương không gượng dậy được thì sói lại thừa cơ lẻn vào. Thế là nó gượng dậy, chân đi còn không vững, vội ăn uống một chút, theo bản năng, chức trách trời định cho Ngao Tạng đi bảo vệ đàn dê.
Đáng tiếc là sau này tôi có nhiều dịp về lại xã Kết Long, nhưng không gặp được người chăn dê và con Hắc Ngao đã quyến luyến tôi nữa. Nghe nói, họ đã di cư đến nơi khác vì thảo nguyên ở đây đã thoái hoá, không còn đủ cỏ để cho đàn dê, bò ăn nữa.
 

ohcuey

Member
Thật bất hạnh là tôi đã kết thúc cuộc sống thường trú tại Tam Giang, trở về thành phố mà không thích chút nào. Trong những ngày tháng nhớ da diết thảo nguyên, nhớ những con Ngao Tạng, hễ có dịp tôi đều tranh thủ về lại nơi đó. Núi tuyết trắng xoá, thảo nguyên bao la, nhưng con tuấn mã, những người du mục, nhưng con Ngao Tạng, trà sữa thơm ngon, tất cả đối với tôi là báu vật suốt đời của Tây Tạng. Tôi không thể xa rời được những báu vật đó, đặc biệt là những con Ngao Tạng. Tôi thường nghĩ hay vì tôi giống cha nên mới thích những con Ngao Tạng. Sao cha tôi lại thích chúng? Tôi hỏi ông, ông trả lời không chút đắn đo: “Ngao Tạng tốt, không như lũ sói.”

Suy nghĩ của cha cũng là suy nghĩ của người thảo nguyên. Trong mắt những người du mục trên thảo nguyên, sói là giống đạo tặc, tuỳ tiện, vô liêm sỉ, bắt nạt kẻ yếu, khúm núm, sợ kẻ mạnh, mềm nắn rắn buông, vong ân bội nghĩa, hại người lợi mình. Ngao Tạng hoàn toàn trái lại, nó trung thành với chủ, thấy việc bất bình nhất định chẳng tha, dũng mãnh, bất khuất. Suốt đời sói chỉ chiến đấu cho bản thân mình, còn Ngao Tạng chiến đấu vì người khác. Sói dĩ thực vi thiên, vật lộn chết chóc chỉ vì cuộc sống của mình; Ngao Tạng dĩ đạo vi thiên, sự chiến đấu của Ngao Tạng là vì trung thành, vì đạo nghĩa, vì trách nhiệm. Sói và Ngao Tạng không thể có ngôn ngữ chung. Chính vì vậy, mỗi khi cha tôi đánh giá những người thích làm hại người, tước bỏ quyền sinh tồn của người khác, đấu đá nội bộ, nham hiểm quỷ quyệt, ông đều nói: “Hắn là 1 con sói”. Trên bìa quyển sách “Chuẩn mực đạo đức công dân”, cha tôi trịnh trọng ghi mấy chữ “Tiêu chuẩn của Ngao Tạng”. Cha nói với tôi: “Chúng ta cần có Ngao Tạng làm bầu bạn, sống cuộc sống ung dung tự tại, chứ không cần sống trong môi trường với bầy sói luôn nhe nanh hầm hè, khiến ta phải lo sợ suốt ngày.”

Cũng may lúc cha tôi sinh thời, người đời chưa đề cao tính sói và chưa thịnh hành cái gọi là “văn hoá sói”, sùng bái sói, nếu không chắc hẳn cha tôi sẽ đau lòng lắm.

Mà thật đang tiếc là lúc cha tôi sinh thời, Ngao Tạng cũng đã bắt đầu suy thoái rồi. Dù rằng suốt cuộc đời cha tôi lấy “tinh thần Ngao Tạng” làm điểm tựa, nhưng khi về già, ông cũng chỉ có thể như con sên sống trong những ô nhà làm bằng xi măng, sống trong hoài niệm và tưởng nhớ đến thảo nguyên xa xôi với những con Ngao Tạng. Mỗi lần ngắm nhìn dáng hình cô quạnh của cha, tôi nghĩ dù thế nào mình cũng phải viết một cuốn sách kể về những con Ngao Tạng, mà vai chính ngoài những con Ngao Tạng ra còn có cha tôi.

Ngao Tạng là giống chó cao nguyên có nguồn gốc từ loài linh cẩu cổ cực lớn sinh sống tại dãy Hi-ma-lay-a cách đây 10 triệu năm, là loại chó duy nhất trên thế giới không bị thay đổi bời thời gian và môi trường, là hoá thạch sống cổ xưa. Nó là loại dã thú từng một thời ngang dọc bốn phương, mãi đến 6000 năm trước mới bị thuần hoá, cùng loài người sống dựa vào nhau, trở thành bạn của loài người. Ngao Tạng xưng danh với nhiều cái tên, người xưa gọi nó là “Long cẩu”, vua Càn Long gọi là “cẩu trạng nguyên”, dân Tây Tạng gọi nó là “Sân cơ” tức sư tử. Các chuyên gia nghiên cứu về Ngao Tạng gọi nó là “quốc bảo”, là “Đông phương thàn khuyển”, là “giống chó dũng mãnh hiếm thấy trên thế giới”, là “giống cho cỡ lớn cổ xưa nhất, hiếm thấy, hung mãnh nhất được thế giới công nhận”, là “tổ tiên của những con chó dũng mãnh nhất thế giới”. Năm 1275, nhà thám hiểm người Ý Mack-Baltic miêu tả con Ngao Tạng mà ông đã từng gặp: “Tại Tây Tạng phát hiện 1 con “quái khuyển” chưa từng thấy. Thân hình nó to lớn như con la, dũng mãnh như sư tử.” Năm 1240, Thành Cát Tư Hãn dẫn đại quân tung hoành châu Âu, trong đó có hơn 30 ngàn con Ngao Tạng – một bộ phận trong quân đoàn mãnh khuyển đã theo ông nam chinh bắc chiến tới châu Âu. Những con Ngao Tạng thuần giống Hi-ma-lay-a này đã lai tạo nên những con chó loại lớn. Như vậy tổ tiên của hầu hết những giống chó hung dữ cỡ lớn hiện nay có mặt tại Châu Âu, Châu Á đều là Ngao Tạng.

Bộ sưu tập những tài liệu về Ngao Tạng của cha tôi ghi chép trong 1 cuốn sổ, ông xem mãi không chán. Trong cuốn sổ đó, ông ghi lại một số truyền thuyết cho chúng ta biết, Ngao Tạng có 1 vị trí thần thánh trên cao nguyên Tây Tạng. Trong truyền thuyết cổ đại có nhắc đến những con mãnh thú thần dũng: con “Nghê”, “Nghê” chính là những con Ngao Tạng, vì vậy, Ngao Tạng còn được gọi là “Thương Nghê”. Trong truyền thuyết dân gian về người anh hùng Tây Tạng Cơ-xa-ơ, những vị chiến thần mang áo giáp sắt đều là những con Ngao Tạng. Ngao Tạng cũng là vị thần đứng cạnh hộ pháp Kim Cương; cũng là biến thể của quỷ đầu lâu Bạch Phàm Thiên; là thần hổ uy của “Lịch thần chi chủ đại tự thiên” và hoàng hậu của thần, Uma; là thú cưỡi của nữ chúa thế giới Pan-ta-la-mu và thần “bão táp kim cương khứ ma”; Ngao Tạng còn là sơn thần của núi Nhia-la-ta-trơ và núi Chai-mô-ni-ơ; là thần bảo hộ của thảo nguyên thông thiên hà. Con Hiếu Thiên Khuyển từng giúp Nhị Lang Thần chiến đấu vế Tề Thiên Đại Thánh cũng là 1 con Ngao Tạng sức mạnh phi thường trên dãy Hi-ma-lay-a.

Những hiểu biết và truyền thuyết về Ngao Tạng đem lại cho cha tôi niềm an ủi lớn. Sau khi con Ngao Tạng mà cha đem về từ Ngọc Thụ chết già thì những thứ đó trở thành nơi duy nhất gửi gắm tình cảm của cha tôi đối với Ngao Tạng. Tôi cắt từ trên báo những thông tin về Ngao Tạng, nào là “nơi tập trung Ngao Tạng”, “Trung tâm gây giống Ngao Tạng”, “đại hội bình chọn Ngao Tạng đẹp”, “cuộc triển lãm Ngao Tạng”…, gửi những thông tin đó đến cha tôi, hy vọng đem lại niềm vui cho ông. Nhưng không ngờ lại càng khiến ông phiền muộn hơn. Cha tôi nói: “Đó mà gọi là những con Ngao Tạng ư? Chúng là “sủng vật” thì đúng hơn”.

Trong tâm khảm cha tôi, Ngao Tạng không chỉ là thú cưng yêu thích trong nhà, không chỉ thuần tuý là động vật, nó là đại diện cho một tố chất cao đẹp, là hình thức mà dân du mục mượn để tôn vinh tinh thần du mục. Ngao Tạng không chỉ hội tụ đầy đủ phẩm chất tốt nhất mà những con dã thú và vật nuôi trên thảo nguyên phải có, nó còn là hội tụ của những phẩm chất xuất sắc mà dân du mục thảo nguyên cần có. Cốt cách của Ngao Tạng không thể sống trong sự quan tâm chiều chuộng của con người, nó chỉ có thể tôi luyện trong trời đất khắc nghiệt của cao nguyên Thanh Tạng. Nếu không để chúng gào thét trong băng tuyết âm 40 độ, không để chúng luôn phải cảnh giác với những con sói và báo ngoài 10, 20 dặm, không để chúng gánh trên vai toàn bộ gánh nặng cuộc sống của gia đình dân du mục thì chúng sẽ suy thoái, mai một về bản tính nhanh nhạy, về tốc độ, sức mạnh và phẩm hạnh. Chính vì vậy, khi sự nhiệt tình đối với Ngao Tạng của một lớp người giàu mới nổi và nhàn rỗi càng cao, khi giá của 1 con Ngao Tạng ngày một đắt, thì sự cô đơn của cha tôi cũng ngày càng tăng.

Tôi đành an ủi cha tôi rằng, ít ra cao nguyên Thanh Tạng vẫn còn đó, Ngao Tạng trên cao nguyên vẫn tồn tại. Tôi nói thêm, nếu làm tốt công tác bảo vệ môi trường thiên nhiên trên cao nguyên Tây Tạng, xây dựng trung tâm Ngao Tạng, vẫn có thể đảm bảo Ngao Tạng thuần giống. Cha tôi cười như mếu, cho rằng có như vậy đi nữa, thì sói cũng đã không còn nhiều.

Đúng vậy, sói đã ít đi rồi, hổ báo gấu rừng cũng không còn bao nhiêu. Kẻ thù của Ngao Tạng ít đi thì thiên tính của nó cũng sẽ mai một. Cha tôi đã biết trước, Ngao Tạng trong trái tim ông đã ra đi không bao giờ trở lại. Cũng mau cha tôi không biết chuyện sói thì ít đi, nhưng “tính sói” và “văn hoá sói”, sự sùng bái sói lại ngày càng hoành hành.
 

ohcuey

Member
Cha tôi mãi mãi ra đi mang theo hoài niệm vô bờ đối với Ngao Tạng.

Tôi và anh em tôi đem quyển ghi chép những kiến thức và thông tin về Ngao Tạng và cha tôi tỉ mẩn cắt dán, kể cả bìa trên có ghi 8 chữ “Nghìn vàng dễ được, một Ngao khó cầu”, đốt cùng giấy bạc âm phủ trước hộp đựng hài cốt cha tôi. 2 anh em tôi hy vọng, nếu thật sự có kiếp sau thì sẽ có những con Ngao Tạng bên cạnh bầu bạn với cha.

Mùa xuân năm sau, Chiang-pa, con một người bạn cũ của cha tôi, Tan-chân-chia, 2 tay nâng dải lụa tắng Ha-ta đến thăm. Anh ta tìm trong ngoài 1 vòng mới hay cha tôi đã mất. Chiang-pa bùi ngùi dâng Ha-ta trước di ảnh cha tôi, rồi lôi từ trong túi du lịch ra món quà định tặng ông. Cả nhà tôi ngạc nhiên đến sững sờ. Đó là 4 chú cún Ngao Tạng. Anh chàng Tây Tạng trung thành thật thà như những con Ngao Tạng này đã tìm kiếm khắp khu Tam Giang rộng lớn, vất vả lắm mới tìm được 4 con Ngao Tạng thuần chủng, hy vọng cha tôi có một cuộc sống về già vui vẻ. Đáng tiếc là cha tôi đã ra đi mãi mãi, không còn được hưởng niềm vui và sự xúc động do những con Ngao Tạng mang đến nữa.
Bốn con cún Ngao Tạng 2 đực 2 cái, 2 con toàn thân đen như mực, 2 con kia lưng đen chân vàng. Con trai Tan-chân-chia nói: Tôi đã nghĩ kỹ rồi, 2 anh em lấy 2 chị em, như tục kết thân trên thảo nguyên, em gái đổi vợ về cho anh trai.” Vừa nói, anh ta như chơi đồ hàng, ghép từng đôi “vợ-chồng” Ngao Tạng vào với nhau.

Chúng tôi vội ôm chúng vào lòng, vui đến quên cả tiếp khách. Tôi hỏi Chiang-pa đã đặt tên cho chúng chưa? Anh ta đáp là chưa. Chúng tôi bèn đặt tên cho chúng ngay. Cún Ngao Tạng đực khoẻ mạnh nhất là Cang-rư-sân-cơ, em nó là Na-rư. Con cún cái bé nhất là Cô-rư, em trai nó khoẻ hơn gọi là Tô-chi-lai-pa. Những cái tên này, cha tôi đã từng đặt cho những con Ngao Tạng của ông. Chúng tôi lấy nguyên xi 4 cái tên có đặt cho các chủ cún. Khi tôi viết tiểu thuyết này, lại lấy những tên đó đặt cho những vai chính để kỷ niệm cha tôi và 4 chú cún Ngao Tạng.

Ngày nhận được 4 con cún Ngao Tạng trở thành ngày vui đầu tiên của gia đình tôi kể từ khi cha tôi mất. Chúng tôi vui mừng đến nỗi quên hết tất cả, và hạt giống bi kịch lại nảy mầm. 2 tuần sau, nhà tôi bị mất trộm. Không mất thứ gì, chỉ mất 2 con cún Ngao Tạng.

Cả nhà tôi bổ đi tìm như mất chính những đứa con của mình. Chúng tôi như điên như dại đi khắp các phố ngõ gọi khản cả tiếng: “Cang-rư-sân-cơ, Tô-chi-lai-pa, Cô-rư, Na-rư”. Chúng tôi nhờ người tìm, báo cảnh sát, đăng báo, treo thưởng, làm đủ mọi cách mà mình nghĩ ra. Rồi 2 năm trôi qua, chúng tôi mới chịu thừa nhận, 4 con cún Ngao Tạng của cha, đồng thời là của cả nhà e rằng không thể tìm lại nữa. Những kẻ trộm chó thường không nuôi chó. Rất có thể chúng là những tay buôn chó, hại người lợi mình, đã biến 4 chú cún Ngao Tạng thành tiền. Người bỏ tiền ra mua những chú Ngao Tạng chắc hẳn là người thích chúng. Có lẽ họ không đến nỗi ngược đãi chúng. Họ sẽ toàn tâm toàn ý nuôi chúng. Chỉ có điều không rõ 4 chú cún Ngao Tạng có phải cùng 1 chủ nuôi không? Hay chúng đã bị chia ly, mỗi con 1 nẻo, sống cuộc sống độc lập, hoàn thành số mạng của mình?

Hiện giờ, 4 chú cún Ngao Tạng chắc đã khôn lớn, sắp làm cha làm mẹ. Tôi muốn nói với những người nuôi chúng, xin hãy nhớ tên chúng: Cang-rư-sân cơ tiếng Tây Tạng nghĩa là sư tử núi tuyết; Tô-chi-lai-pa là Thiện Kim Cương; Cô-rư là tên những người thảo nguyên kính cẩn gọi Thần Mẫu dũng mãnh tráng kiện, lấy mặt trăng làm biểu tượng; Na-rư là tên gọi Sư Diện Hắc Kim Hộ Pháp, lấy mây đen làm biểu tượng. Ngoài ra, Cô-rư còn có nghĩa là trứng tròn, Na-rư là trứng đen. Đó là những cái tên mà dân Tây Tạng thường đặt cho con cái.

Và cũng xin nhớ rằng, phải như những dân dư mục trên cao nguyên đối xử với chúng, trăm nghìn lần nhớ rằng đừng tuỳ tiện ghép đôi cho chúng. 4 con Ngao Tạng chỉ có thể sinh con đẻ cái với Ngao Tạng chính thống ở Hi-ma-lay-a mới có thể duy trì huyết thống, mới có thân hình cao to uy vũ, đồng thời duy trì được tinh thần vĩ đại và phẩm chất cao thượng. Có thể thế hệ này tiếp nối thế hệ khác “uy trấn quần khứ”, “kiệt xuất siêu phàm”, “Sắt đúc thạch điêu”, “thông minh lanh lợi”, trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống loài người.

Hãy xin nhớ rằng, trên người chúng ngưng tụ những tình cảm của dân du mục thảo nguyên Tây Tạng với cha tôi, cũng ngưng tụ niềm thương nhớ vô tận của 1 người con trai với cha mình.
 

ohcuey

Member
TẬP THƯỢNG


Cuộc chiến Ngao Tạng xảy ra trên thảo nguyên Chinh-cô-ama được chi trên dư địa chí của địa phương chỉ vẻn vẹn có mấy chữ: Năm quốc dân đảng thứ 27, tiểu đoàn quân Hán của tướng Mã Bộ Phương đóng tại sân bay vịnh La-gia Tây Ninh di trú đến thảo nguyên Xi-chia-cu, thảo nguyên phía Tây Chinh-cô-ama. Tiểu đoàn trưởng, biệt danh là vua thịt chó cho quân đi lùng bắt những con chó về ăn thịt khiến các tù trưởng và dân du mục bất mãn, dẫn đến chiến sự. Dưới sự chỉ huy của tướng cướp Chia-ma-chua, thủ lĩnh quân sự của bộ lạc Mục Mã Hạc, hàng trăm con Ngao Tạng dũng mãnh xông pha, buộc quân Hán phải bỏ chạy khỏi thảo nguyên Xi-chia-cu.

Nhưng những người dân thảo nguyên lại nói, cuộc chiến Ngao Tạng năm quốc dân đảng thứ 27 vừa là bản anh hùng ca, vừa là bài ca bi tráng, đau thương, lạnh buốt như sự tưới tắm của núi tuyết xuống thảo nguyên. Nó thấm sâu vào ký ức của con người và những con Ngao Tạng, vì chiến bại của tiểu đoàn quân Hán không có nghĩa là cuộc chiến Ngao Tạng đã kết thúc. Thậm chí có thể nói, nó chỉ mới bắt đầu. Tướng Mã Bộ Phương quyết không để cho dân thảo nguyên có bất cứ hành động chống đối nào, bèn phái 1 đại đội kỵ binh đến đàn áp “phiến loạn”. Thảo nguyên Xi-chia-cu chìm trong khói lửa chiến tranh.

Đến tắm máu thảo nguyên Xi-chia-cu không chỉ có đại đội kỵ binh của Mã Bộ Phương, còn có các kỵ sĩ của thảo nguyên Thượng Ama, vốn thù địch truyền kiếp với thảo nguyên Xi-chia-cu. Các tù trưởng của thảo nguyên Thượng Ama, những kỵ sĩ phục tùng các tù trưởng, bị đại đội kỵ binh của Mã Bộ Phương xúi giục, dử mồi đã vượt qua biên giới thảo nguyên vốn có tranh chấp từ xa xưa. Sự tranh chấp thảo nguyên từ cổ xưa và mâu thuẫn bộ lạc nhanh chóng biến thành 1 cuộc chiến thực thụ. Bao nhiêu người đầu rơi máu chảy, bao nhiêu Ngao Tạng bị lột xa xả thịt, Mùa xuân của thảo nguyên Xi-chia-cu dưới những đợt mưa máu đã mọc ra những bãi cỏ màu đen thấm đỏ. Những bãi cỏ chăn nuôi đó không cách nào trở lại màu xanh tươi mơn mởn như trước nữa. Đó là những bãi cỏ suốt cả 4 mùa xuân hạ thu đông, mưa tuyết sương gió cũng không thể gột sạch. Đó là những bãi cỏ mà từ gốc rễ cho đến gien di truyền đã thấm đẫm máu tươi và hận thù.
 

ohcuey

Member
Xuyên qua Lan Đạo Hiệp đã thấy thảo nguyên Chinh-cô-ama. 2 quân nhân tiễn cha tôi dừng ngựa lại, một người nói: “Chúng tôi chỉ có thể đưa anh đến đây thôi, đồng chí phóng viên ạ. Dân du mục và thảo nguyên Chinh-cô-ama là bạn với chúng ta. Anh sẽ không gặp nguy hiểm gì đâu. Cứ đi thẳng theo mặt trời lặn và xuống núi, không đầy 3 tiếng đồng hồ nữa, anh sẽ thấy 1 ngôi chùa và dãy nhà bằng đá. Đấy chính là nơi anh muốn đến, Xi-chia-cu đó.” Cha tôi nhìn 2 quân nhân đi về hướng Lan Đạo Hiệp. Ông mệt mỏi nhảy xuống ngựa, dắt con ngựa máu táo đỏ đi mấy bước, rồi nằm lăn ra trên bãi cỏ.

Tối qua ở thảo nguyên Tô-mi, cha tôi học tiếng Tạng với người chăn cừu, khuya lắm mới ngủ. Sáng nay lên đường từ lúc trời chưa sáng, ông muốn ngủ một chút rồi mới tiếp tục đi. Nhắm mắt lại, ông thấy hơi đói, bèn bốc 1 nắm lạc trong túi đựng lương khô bóc ra từng hạt cho vào mồm. Vỏ lạc rơi ở 2 bên sườn. Ăn hết 1 vốc, ông còn muốn ăn thêm, nhưng chưa hết vốc thứ 2 thì ông đã thiếp đi. Đột nhiên ông tỉnh dậy, bỗng ý thức được nguy hiểm đang rình rập bên mình. Ông thấy có những bóng đen vây quanh mình, không phải bóng ngựa, bóng đen đó thấp hơn ngựa. Sói? Ông ngồi bật dậy.

Không phải sói, là sư tử. Mà cũng không phải sư tử, là chó. Một con chó vàng lông dựng đứng đang ngồi cạnh nhìn chằm chằm vào ông. Chủ của con chó là 1 đám trẻ, ánh mắt hiếu kỳ chớp lia lịa. Cha tôi lần đầu tiên tiếp xúc với 1 con chó Tạng to lớn, ông căng thẳng lùi về sau và hỏi: “Các cháu từ đâu tới? Muốn gì?”
Bọn trẻ nhìn nhau, 1 đứa có cái đầu to nói bằng tiếng Hán lơ lớ: “Thượng Ama”. “Thượng Ama? Nếu các cháu là người Xi-chia-cu thì tốt biết mấy.” Cha tôi thấy trong tay bọn trẻ đều có vỏ lạc, 2 đứa còn đang đưa lên mồm nhằn. Nhìn sang bên cạnh, ông thấy vỏ lạc vứt bừa bãi đã bị bọn trẻ nhặt hết. Cha tôi nói: “Vứt đi, không ăn được đâu.” Vừa nói, ông vừa bốc 1 nắm lạc khác đưa cho chúng.

Bọn trẻ tranh nhau chìa tay ra. Cha tôi chia đều cho bọn trẻ, còn 2 củ lạc, ông vứt 1 củ cho con chó vàng, nịnh nó: “Mày đừng cắn tao nhé.” Sau cha tôi làm mẫu, bóc vỏ lạc ra ăn hạt, bọn trẻ cũng bắt chước theo. Con chó vàng ngửi ngửi củ lạc vẻ nghi ngờ, muốn ăn nhưng không dám. Thằng bé đầu to nhanh nhẩu nhặt củ lạc trước mõm chó, định đút vào mồm. 1 đứa khác có vết sẹo trên mặt cướp lại: “Phần của Cang-rư-sân-cơ!” Sau đó nó bóc lạc, để hạt trên bàn tay đưa đến trước mõm con chó vàng. Con chó vàng nhìn thằng bé có vết sẹo đầy cảm kích, thè lưỡi liếm luôn hạt lạc.

Cha tôi hỏi bọn trẻ: “Các cháu biết đây là gì không?” Thằng bé đầu to trả lời: “Quả thiên đường”. Nó lại dùng tiếng Tạng nhắc lại 1 lần nữa. Mấy đứa trẻ tán đồng gật đầu. Cha tôi nói: “Quả thiên đường ư? Cũng có thể gọi vậy, nhưng nó còn 1 cái tên khác nữa, gọi là củ lạc.” Thằng bé đầu to nhắc lại: “Củ lạc?”
Cha tôi đứng dậy, ngẩng đầu nhìn trời rồi lên ngựa. Ông vẫy tay chào bọn trẻ và con chó vàng trông đáng sợ kia rồi quất ngựa đi khá xa. Bỗng ông thấy đằng sau có tiếng động, quay đầu nhìn lại thì thấy lũ trẻ và con chó vàng to như con sư tử kia đang lẽo đẽo theo sau.

Cha tôi dừng lại, dùng ánh mắt hỏi: “Bọn bây theo tao làm gì?” Bọn trẻ cũng dừng lại, cũng dùng ánh mắt hỏi: “Sao ông không đi nữa?” Cha tôi lại tiếp tục đi, bọn trẻ lại tiếp tục theo sau. Một con chim ưng lượn vòng tròn trên đầu cha tôi một cách hiếu kỳ. Nó nhìn thấy dưới bầu trời thảo nguyên xanh biếc mùa hè, 1 người Hán cưỡi ngựa, theo sau là 7 đứa trẻ dân tộc Tạng, quần áo rách rưới và 1 con chó Tàng màu vàng oai phong lẫm liệt. Bọn trẻ vừa đi hăng say vừa dùng chân đá thảm cỏ êm và xốp.

Cha tôi trước sau đều cho rằng, chính những củ lạc là sợi dây liên kết 7 đứa trẻ và con chó vàng to lớn kia với ông. Số lạc đó là của ông Kim, chủ nhiệm ban phóng viên toà báo khi rời Tây Ninh cho cha tôi. Con gái ông mang từ quê Hà Nam lên cho 1 túi lạc. Ông Kim muốn cha tôi mang đi ăn hết. Ông nói: “Đây là món quà đặt biệt cho anh đấy. Chúng ta là đồng hương mà, anh đừng khách sáo.” Đương nhiên cha tôi không lấy hết, ông chỉ vốc một ít để trong túi lương khô, vừa đi vừa ăn. Khi đến thảo nguyên Chinh-cô-ama, chỉ còn lại chừng ấy. 7 đứa trẻ cùng con chó Tạng Cang-rư-sân-cơ đã ăn chỗ lạc còn lại cuối cùng, sau đó theo cha tôi đến tận Xi-chia-cu.

Xi-chia-cu là trung tâm của thảo nguyên Chinh-cô-ama, 1 ngôi chùa, 1 dãy nhà vọng gác xây bằng đá là dấu hiện của trung tâm đó. Những nơi không phải trung tâm trên thảo nguyên chỉ có lán vải có thể di chuyển đến bất kỳ nơi nào nếu cần. Giừa chùa và nhà vọng gác, chỗ nào cũng có gò Ma-ni, trông như cái tháp cao. Cạnh gò, cột khắc kinh nhiều vô kể. Cờ phong mã 7 màu in hình kinh văn và những lá cờ phướng vẽ tượng Phật nhiều màu sắc theo gió phấp phới tung bay. Cha tôi đến Xi-chia-cu lúc đã xế chiều. Hoàng hôn kéo dài bóng ông. Chùa Xi-chia-cu xây dựa theo thế núi cao thấp so le và những nhà vọng gác dưới nắng chiều trông như hơi nghiêng.

Cạnh chân núi là mảnh đất bằng phẳng, nơi rừng và thảo nguyên giáp nhau. Lẻ tẻ có vài cái lán lợp bằng lông bò, nhà bạt vải đen và trắng. Xung quanh nhà bạt trang trí bằng những lá cờ nhiều màu sắc thêu 6 chữ chân ngôn. Khói lam toả lan từ mái nhà, gió thổi chúng quấn vào mây. Mây bay là là gần chạm vào những cánh rừng trên dốc núi.

Dường như những áng mây phát ra tiếng động. Chó sủa ăng ẳng, rồi đua nhau sủa. Dưới chân núi, những đợt sóng cỏ dập dìu, phát ra âm thanh soàn soạt. Bóng của đàn chó vượt qua tầng mây, chạy ùa về phía cha tôi. Cha tôi kêu “Ối” một tiếng, luống cuống dừng ngựa lại. Ông chưa bao giờ thấy nhiều chó như vậy. Toàn là chó, rất nhiều những con cao to. Chúng không phải là chó nữa, là thú hoang như hổ, báo, gấu, sư tử.

Sau này cha tôi mới biết ông đã thấy những con Ngao Tạng. Cả một đàn chó Tây Tạng các loại có đến mấy trăm con, trong đó ít nhất 1/3 là những con Ngao Tạng dũng mãnh, cao to. Thời đó, những con Ngao Tạng trên thảo nguyên tuyệt đối thuần chủng. Có 2 nguyên nhân khiến những con Ngao Tạng trên dãy Hi-ma-lay-a nổi tiếng hung dữ và trí tuệ này giữ được thuần giống: Một là thời gian động dục của những con Ngao Tạng cố định vào mùa thu, những con chó khác thường là mùa đông hoặc hè. Trong thời gian những con Ngao Tạng động dục, những con chó cái không phải giống Ngao Tạng thường trốn tránh, vì chúng không chịu nổi sức nặng của Ngao Tạng, cũng như dê cái không chịu nổi sức nặng của bò đực vậy. Hai là thiên tính của Ngao Tạng cô độc, kiêu ngạo, khiến chúng gần như đoạn tuyệt khả năng thân mật với những con chó giống khác. Ngao Tạng với những con chó Tạng khác là bạn bè, là láng giềng, nhưng không thể là vợ chồng. Ngao Tạng đực cô độc chỉ muốn giao phối cùng Ngao Tạng cái càng cô độc hơn. Nếu lần đầu phối thành công, rất ít khi đôi lứa thay đổi bạn trăm năm, trừ khi bạn tình chết. Rất hiếm khi những con Ngao Tạng đực chẳng may vì bạn tình chết, do sự thúc giục của tính dục, phải đi tìm đối tượng khác không phải Ngao Tạng để xả dục. Nhưng như trước đã nói, những con chó cái vì không chịu được sức nặng của Ngao Tạng nên trông thấy nó từ xa đã trốn biệt. Nếu không trốn thoát được sẽ bị nó đè nằm gí xuống, hoàn toàn không thể thực hiện động tác giao phối tự nhiên. Một số Ngao Tạng ưu tú hơn, dù bạn đời chết, dù năm nào cũng bị tình dục thiêu như lửa, tràn như lũ, cũng quyết không hạ thấp tiêu chuẩn của mình. Chúng là tượng trưng cho sự tôn nghiêm trong bầy chó, là Ngao Tạng cao quý, kiêu hãnh và trang nhã. Chí ít phong thái cốt cách cũng đáng kính nể.

Lại nói khi cha tôi sợ hãi quay đầu, quất ngựa chạy thì 1 đứa trẻ ở trần đi chân đất không hiểu từ đâu chui ra, kéo cương con ngựa đỏ thẫm của cha tôi lại. Con ngựa giật mình dựng vó trước lên khiến cha tôi suýt ngã. Đứa trẻ đu mình giữ con ngựa lại, hú dài 1 tiếng. Những con chó Tang đang phi như bay hướng về phía cha tôi dừng lại ngay.

Đàn chó không yên nhưng cũng không vồ vào cha tôi nữa. Cha tôi lăn từ trên lưng ngựa xuống. Thằng nhóc ở trần dắt con ngựa đi trước, đàn chó theo sau cha tôi, không xa mà cũng không gần lắm. Con mắt thù địch của chúng vẫn nhìn chằm chằm cha tôi. Cha tôi không ngoái cổ lại, nhưng vẫn cảm nhận được sự đe doạ đến từ những ánh mắt đó. Bất giác, cha tôi sợ run lên.

Thằng bé ở trần đưa cha tôi đến 1 nhà vọng gác tường trắng, trên tường đắp đầy phân bò đen. Nhà 2 tầng, dưới là chuồng ngựa để ngỏ, người ở trên. Thằng nhóc tiễn mắt chỉ lên trên.

Cha tôi vỗ vai trẩn của nó tỏ lòng biết ơn. Bỗng thằng bé nhảy ra, sợ hãi nhìn cha tôi, hệt như cha tôi đã sợ hãi nhìn đàn chó vậy. Cha tôi hỏi: “Cháu sao thế?” Thằng nhóc ở trần nói: “Thần thì địch, thần thù địch, trên vai ta có thần thù địch.” Cha tôi lắc đầu chẳng hiểu nó nói gì. Ông lấy hành lý từ trên lưng ngựa xuống, tháo yên ngựa ra, thả ngựa đến dốc núi ăn cỏ, còn mình xách hành lý bước lên bậc đá, đi thẳng vào cửa vọng gác. Ông đứng đó vừa định gõ cửa bỗng nghe tiếng kêu rít của thằng bé ở trần. Ông quay lại thấy mặt thằng bé biến dạng.

Trong ánh hoàng hôn, khuôn mặt thằng bé hằn rõ sự hận thù, đặc biệt là đôi mắt. Chưa bao giờ cho tôi thấy đôi mắt của 1 đứa trẻ lại có thể nảy ra những tia lửa thù hận đến như vậy.

Trên dốc núi không xa, 7 đứa trẻ theo cha tôi đến thảo nguyên Xi-chia-cu và con chó vàng tên Cang-rư-sân-cơ to như con mãnh sư dàn hàng ngang đứng đó. Cha tôi sẽ biết ngay thôi, Cang-rư-sân-cơ tiếng Tạng nghĩa là Sư tử núi tuyết. Nó cũng là 1 con Ngao Tạng, 1 con Ngao đực tráng kiện trẻ trung.

Cha tôi dùng tiếng Tạng nữa mùa hỏi thằng bé ở trần: “Sao thế? Bọn trẻ kia là của Thượng Ama đấy.” Thằng bé ở trần trừng mắt nhìn cha tôi 1 cái. Nó dùng tiếng Tạng thét như điên: “Kẻ thù Thượng Ama! Kẻ thù Thượng Ama! Ao-tô-chi! Ao-tô-chi!” Bầy chó Tạng sủa gầm lên, trnah nhau vồ đến. 7 đứa trẻ Thượng Ama chạy bán sống bán chết, vừa chạy vừa kêu: “Ma-ha-cơ-la-pân-sân-pao. Ma-ha-cơ-la-pân-sân-pao.”

Con Ngao Tạng vàng Cang-rư-sân-cơ xông lên giao chiến yểm hộ lũ trẻ. Trong chớp mắt nó đã hỗn chiến với những con chó Tạng.

Cha tôi ngạc nhiên đứng như trời trồng. Lần đầu tiên ông được tận mắt chứng kiến 1 cuộc huyết chiến ác liệt trong thế giới chó. Cũng chính lần đầu tiên này ông phát hiện ra loài chó cũng giống như loài người, trước tiên phải loại trừ đồng loại chứ không phải loại trừ khác loại. Tất cả những con chó Tạng không đuổi cắn 7 đứa trẻ Thượng Ama nữa mà chĩa mũi tấn công con Cang-rư-sân-cơ đang cản đường chúng.

Cang-rư-sân-cơ biết tình hình lúc này thật bất lợi cho nó, nên đã áp dụng chiến thuật tốc chiến tốc thắng. Nó nhanh chóng chọn mục tiêu, rồi nhanh như tia chớp, dùng cả thân mình vồ vào đối thủ, nhưng chưa kịp cắn 1 miếng, nó đã vội chuyển sang mục tiêu khác. Kiểu cắn vồ nhịp điệu nhanh, thể lực nặng như đá lở của nó khiến nó vồ con nào là con đó ngã lăn ra. Mỗi khi Cang-rư-sân-cơ vồ ngã con này thì con khác thừa cơ cắn nó, để lại dấu răng vào mông và sườn. Những vết cẳn rỉ máu. Nhoáng cái, mông và lưng sườn con Cang-rư-sân-cơ đã nhuộm cả máu.

Thực khắc nghiệt là tất cả những con chó Tạng bị Cang-rư-sân-cơ vồ ngã không con nào có thân hình to khoẻ. Những con chó to, loài thú dữ như hổ báo, sư tử và gấu này chỉ đứng ở vòng ngoài, ngay cả 1 tiếng sủa cũng không cất lên. Chúng đang quan chiến, dường như chúng không thèm đếm xỉa đến kiểu đánh hội đồng này. Chúng im lặng bình tĩnh như 1 vị tướng. Hoặc giả chúng ý thức được mình chẳng cần ra tay, kẻ xâm phạm kia sẽ chết không có đất chôn, vì vậy chúng im lặng 1 cách ngạo mạn. Còn con Cang-rư-sân-cơ thấy đánh với 1 bầy chó Tạng thấp bé hơn mình, quả là điều đáng sỉ nhục. Đáng sỉ nhục hơn nữa là dù nó có đánh bại đối phương, nhưng người chảy máu lại là nó.

Những con chó Tạng này thắng không phải nhờ sự dũng mãnh mà dựa vào sức mạnh bầy đàn, đang dần dần tiêu hao sức lực của Cang-rư-sân-cơ và làm cho máu nó dần cạn kiệt.

Cang-rư-sân-cơ lại thay đổi chiến thuật. Khi 1 con chó Tạng nữa lại bị nó vồ ngã, và mông nó lại bị để lại 2 dấu răng đang rỉ máu của kẻ đánh lén, sự sỉ nhục lại sôi sục trong huyết quản nó khiến nó đi đến 1 quyết định gần như là mất khôn. Nó vòng qua tất cả lũ chó Tạng đang quần đảo nó, nhằm thẳng con chó cao to xông tới. Nó biết những con chó cao to kia là cùng giống với nó. Giống chó Ngao Hi-ma-lay-a, niềm kiêu hãnh của loài chó và loài người. Nó biết chỉ những con chó ưu tú của giống chó Ngao Hi-ma-lay-a mới là thủ lĩnh của bầy chó Xi-chia-cu. Quyết 1 phen sống mái với nó phải là những con Ngao Tạng chứ không thể là những con chó lâu la vây quanh nó sủa cắn ầm ĩ. Nó tin nó có thể giết chết chúng, cũng tin chúng có thể giết chết nó. Nhưng giết hay bị giết nó đều chấp nhận. Cái mà nó muốn là 1 cuộc chiến tương xứng với thân phận, với thế và lực, tương xứng với vinh và nhục, một cuộc chiến Ngao Tạng.
 

ohcuey

Member
Những con Ngao Tạng không ngờ Cang-rư-sân-cơ lại xông thẳng vào chúng. Hơn nữa, nó vừa xông đến là húc ngã 1 con sư đầu Kim Ngao cũng oai phong lẫm liệt không kém gì nó. Sau phút kinh ngạc, bầy Ngao Tạng vút cái giãn ra. Đó là khúc dạo đầu để xông lên nghênh chiến kẻ xâm phạm. Nhưng chúng không xông lên nữa. Chúng thấy con sư đầu Kim Ngao bật dậy vồ vào đối phương, thế là chúng lại giữ bình tĩnh, ngạo mạn như những vị tướng. Con Cang-rư-sân-cơ và con sư đầu Kim Ngao vồ lấy nhau, cắn vào thịt, vào da nhau, lấy 2 cái đầu ngao làm trung tâm quay vòng tròn giằng xé nhau. Nhưng hiển nhiên đây không phải là 1 cuộc chiến thế cân lực bằng. Kết quả con sư đầu Kim Ngao bị đè xuống đất, nửa cái cổ của nó nằm trong cái mõm to của con Cang-rư-sân-cơ. Máu từ kẽ răng của Cang-rư-sân-cơ chảy ra. Đấy là cái giá phải trả của con sư đầu Kim Ngao vì không biết tôn trọng 1 đồng loại mạnh hơn nó. Sự trả giá này cũng không thảm hại lắm, vì con Cang-rư-sân-cơ không tham lam cắn nó đến chết mới nhả ra. Khi Kim Ngao xoay cái cổ đang chảy máu, phẫn nộ đứng dậy nhe răng định cắn trả thì thấy đối phương đã bỏ nó xông thẳng vào con Ngao Tạng đứng gần nhất. Đấy là con Ngao đực màu xám, mắt xếch, mũi thẳng, trông hung ác. Nó đứng gần Cang-rư-sân-cơ nhất vì nó đã thấy trước sự thất bại của con sư đầu Kim Ngao và chuẩn bị sẵn sàng nghênh chiến với Cang-rư-sân-cơ. Khi thấy Cang-rư-sân-cơ đè ngã sư đầu Kim Ngao, nó làm ra vẻ như sắp vồ cắn để khiêu khích đối phương. Nhưng đợi cho Cang-rư-sân-cơ vồ tới, nó lại khéo léo tránh đi. Hành động chưa thử sức đã vội trốn tránh này không thường thấy ở những con Ngao Tạng, vốn thích đánh thẳng vào mặt nhau. Chiến thuật này chỉ có ở những con Ngao Tạng đã đánh nhau nhiều với sói và báo mới học được từ đối thủ. Trốn tránh là để trêu tức đối thủ, để đối thủ không kiềm chế được sự tức giận rồi tìm sơ hở để tạo cơ hội tấn công. Vì vậy con Ngao đực màu xám già này cứ trốn đi tránh lại, khiến Cang-rư-sân-cơ vô cùng tức giận. Khi con Cang-rư-sân-cơ liên tiếp ba bốn lần vồ cắn thất bại, không kìm được phát ra 1 tiếng rít. Âm thanh đó những con Ngao Tạng đang cắn nhau không bao giờ phát ra, chứng tỏ mục đích của con Ngao đực già kia đã gần đạt được. Chỉ cần liên tục vồ cắn hụt mấy lần, nhuệ khí của Cang-rư-sân-cơ sẽ mất dần. Làm tổn thương nhuệ khí của 1 con Ngao đực có nghĩa là làm mất đi một nữa sức mạnh và tốc độ của nó.

Song con Ngao đực già màu xám kia tuy mưu thâm kế độc, nhưng vẫn chưa đánh giá chính xác năng lực của Cang-rư-sân-cơ. Tuy Cang-rư-sân-cơ nóng lòng muốn giành phần thắng nên tỏ ra nôn nóng, nhưng rất nhanh nó đã hiểu rõ mục đích của con Ngao đực già kia. Nó quan sát nắm vững đường tránh của đối phương rồi theo bản năng di truyền xuất sắc nhất, nó hiểu là muốn vồ trúng đối phương phải ra tay trước khi đối phương tránh. Nó vồ cắn một lần theo sự tính toán của nó, không thành công. Nhưng sau đó nó lại hiểu ngay, không chỉ phải ra tay trước mà còn phải giương đông kích tây, khiến đối thủ không còn cách trốn thoát. Lần vồ cắn này nó đã thành công, làm cho sự tự trọng của con Ngao đực già bị tổn thương lớn. Trong khoảnh khắc con Ngao đực già tránh sự công kích của đối phương thì uỵch 1 cái, nó đã bị đè bẹp xuống đất, trên lưng cảm nhận được một sức mạnh nặng nề. Cùng lúc đó, gáy sau có một cảm giác đau đớn và bỏng rát. Chiếc răng nhọn sắc của Cang-rư-sân-cơ đã xé rách da thịt nó. Nó vội quay đầu định cắn, nhưng nghe thấy tiếng gừ cảnh cáo khẽ phát ra từ sâu trong cuống họng Cang-rư-sân-cơ, nó cúi đầu xuống rên khàn khàn. Đó là tiếng khóc, như tiếng khóc nấc thê thảm của loài người. Tiếng khóc đó không phải là nỗi sợ hãi mà là nỗi bi ai. Nó biết mình đã già, già đến nỗi không còn giữ được sự tôn nghiêm của Ngao Tạng trên thảo nguyên Xi-chia-cu. Điều duy nhất nó phải làm lúc này không phải là gượng dậy cắn xé vật lộn với địch thủ cho tới khi mình bị cắn trọng thương hoặc chết, mà là hai tay dâng kẻ địch đáng ra phải do mình tiêu diệt cho con Ngao Tạng khác, và chứng kiến 1 cách đau khổ con Ngao Tạng khác đánh bại kẻ cả gan xâm phạm này rồi dương dương tự đắc như thế nào.

Tiếng khóc thê thảm khiến Cang-rư-sân-cơ rời ngay lưng con Ngao Tạng đang đau khổ giần giật kia. Nó quay ngoắt lại, húc ngã 2 con chó Tạng lâu la lại định chồm đến cắn mông nó. Sau đó hiên ngang nhìn bầy chó Ngao con nào con nấy cũng cao to lực lưỡng của vùng Hi-ma-lay-a. Mũi nó thở phì phò, một luồng hào khí tràn đầy lồng ngực. Nó nhìn với một tư thế uy vũ bất khuất, dũng mãnh, ngang tàng.
 

ohcuey

Member
Đến lúc này, theo quy luật, phong tục cổ xưa trong thế giới Ngao Tạng, Ngao Vương sẽ xuất trận nghênh chiến kẻ xâm phạm. Tại cao nguyên Thanh Tạng, những vùng sâu của thảo nguyên, đặc biệt là thảo nguyên Chinh-cô-ama, trong bầy Ngao Tạng giữ gìn bảo vệ lãnh địa thường tồn tại 1 con Ngao Vương với vị trí thủ lĩnh. Nó nhất định phải là giống đực, nhất định phải lớn mạnh và hung hãn cực kỳ, nhất định phải lập nên những chiến công hiển hách trong lãnh địa mà nó gìn giữ bảo vệ. Hơn nữa, phải được cả người và chó công nhận, nghĩa là nó đã cắn chết rất nhiều sói hoang và sói tuyết, cắn chết vô số báo kim tiền và báo tuyết, thậm chí đã từng cắn bị thương, cắn chết những con gấu ngựa Tạng và bò rừng lông dài. Ngoài ra, nó có thể đã từng cắn chết người như cắn chết con cáo, cắn chết những kẻ thù dám xông vào lãnh địa khiêu khích chủ nhân nó. Sự ra đời của Ngao Vương không nhất thiết phải thông qua kết quả của 1 cuộc đọ sức sống mái quyết liệt giữa các con Ngao Tạng, vì trong sự chung sống lâu dài ngày này qua tháng khác, trước trách nhiệm và kẻ địch chung, ai dũng cảm nhất, ai có trí tuệ nhất, ai trí dũng song toàn, trong lòng các con Ngao Tạng đều biết cả. Thêm vào đó là sự nhất trí thừa nhận của con người. Thế là tất cả đều công nhận và suy tôn nó. Chỉ có 1 tình huống khiến sự ra đời của Ngao Vương biến thành trận chiến sống còn giữa các con Ngao Tạng, đó là khi sự thừa nhận của con người sai lệch với sự thừa nhận của bầy Ngao Tạng. Con Ngao Vương nào được con người công nhận hoặc chỉ định thì tự nó phải chứng minh được sự lựa chọn của con người là chính xác. Con Ngao Tạng mà bầy Ngao Tạng lựa chọn cũng phải chứng minh quyết định của bầy Ngao Tạng là đúng đắn. Thế là sự đấu nhau sẽ thường xuyên xảy ra cho đến khi 1 trong 2 con ấy bị triệt để chinh phục. Cũng có con đến chết cũng không phục, thế là con cứng đầu cứng cổ bị 1 con cứng đầu cứng cổ hơn cắn chết tươi. Thông thường con bị chinh phục hoặc bị cắn chết thường là con Ngao Vương do con người công nhận. Vì trên phương diện xác định công trạng và nhận biết năng lực của Ngao Vương thì bầy Ngao Tạng so với con người sẽ chính xác và công bằng hơn.

Giờ đây, Ngao Vương trong bầy Ngao Tạng của thảo nguyên Xi-chia-cu sắp xuất hiện. 1 khi xuất hiện, nó gần như là 1 cuộc đọ sức nặng ký giữa mãnh hổ với mãnh hổ, sư tử với sư tử. Tất cả những con Ngao Tạng, tất cả những con chó Tạng lâu la, kể cả những con cún con hưng phấn đến không còn biết gì là sống chết bông nhiên im bặt. Tất cả đều đang chờ đợi. Khói lam, áng mây chiều tà và tịch dương đều đang tĩnh lặng chờ đợi. Bóng chùa Xi-chia-cu và dãy nhà vọng gác dưới ánh nắng hoàng hôn trông vốn đã nghiêng ngả nay lại càng nghiêng ngả. Từ trên đồi nhìn xuống, bóng râm của kiến trúc đó dường như kéo dài và xa xăm hơn.

Cang-rư-sân-cơ ngẩng cao đầu nhìn khắp lượt bầy Ngao Tạng, hầu như không bỏ qua 1 con nào. Ánh mắt nó dừng lại nhìn chằm chằm vào 1 con hổ đầu Tuyết Ngao đang mỉm cười nhìn nó. Con hổ đầu Tuyết Ngao chính là Ngao Vương của thảo nguyên Xi-chia-cu. Dù rằng vị trí của nó không ở giữa trung tâm bầy đàn, dù rằng nó vẫn ngồi ung dung như thể trận chiến trước mặt chẳng liên quan gì đến nó, nhưng Cang-rư-sân-cơ chỉ cần liếc một cái đã nhận ra chính nó là Ngao Vương. Xem kìa, thân hình nó cao to vĩ đại, tư thế cao quý trang nhã, khí phách của 1 vương gia thể hiện trên nét mặt nó, ánh mắt nó liếc nhìn xung quanh đã đủ thấy oai phong lẫm liệt rồi. Một mắt nó đầy vẻ tự tin và hào sảng mà 1 vương gia phải có. Còn mắt kia đầy uy nghiêm và sát khí mà một đấu sĩ phải cần. Nhưng hành động của nó chậm chạp đầy vẻ ngạo mạn. Đó là sự miệt thị tận đáy lòng đối với kẻ xâm phạm. Cang-rư-sân-cơ bất giác khen thầm: Thật tuyệt, 1 Ngao Vương thật tuyệt! Cái đầu tôn nghiêm của nó không hề động đậy. Mỗi một cái lông ngao trắng như tuyết của nó lay động trước gió đều đang chứng minh ý nghĩa vĩ đại của sự tồn tại của nó. Điều quan trọng là, tuy mõm nó cắn chặt, nhưng 2 cái răng nanh vừa nhọn vừa sắc vẫn thò ra khỏi cái mõm dày thịt của nó. Răng nanh có 6 lưỡi, nghĩa là nó có 6 cái răng nanh, mỗi bên 3 nanh. Những con Ngao Tạng thường chỉ có 4 cái thôi, mà lại không nhọn sắc như vậy. Răng nanh dài nhọn sắc có 6 lưỡi cho đối phương biết một cách không úp mở là ta không bao giờ chiến bại. Cái diện mão mõm to mũi rộng là điển hình của loài Ngao Tạng vùng Hi-ma-lay-a cổ xưa khiến bất kỳ người hay súc vật nào nhìn thấy đều phải kính nể. Đó là uy thần thánh của sự sống bất khả xâm phạm.

Hổ đầu Tuyết Ngao đứng dậy, cuối cùng thì Ngao Vương của thảo nguyên Xhi-chia-cu cũng đứng dậy rồi. Cang-rư-sân-cơ nhìn nó chớp mắt 1 cái, chùm lông trên lưng vàn óng rũ mạnh. Trận đấu giữa 2 con mãnh Ngao sắp bắt đầu. Không, không phải đấu, mà là trừng phạt. Trong con mắt bầy Ngao Tạng và chó Tạng, đây là sự cắn xé mang tính trừng phạt không mảy may thương tiếc. Vì sự trung thành với chức trách và bảo vệ danh dự, Ngao Vương của thảo nguyên Xi-chia-cu phải nghiêm khắc trừng phạt một kẻ ngang nhiên xâm phạm lãnh địa của nó mà không lượng sức. Nếu kẻ xâm phạm cả gan chống trả nghĩa là nó không muốn sống nữa.

Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao lững thững đi đến trước mặt Cang-rư-sân-cơ. Những âm thanh phù phù phát ra từ cuống họng nó như báo cho đối phương: “Mày còn kịp giữ mạng đó, chạy trốn mau. Thảo nguyên Xi-chia-cu không hoang nghênh mày!” Cang-rư-sân- cơ hiểu lời nó, nhưng không hề có 1 phản ứng tuân phục, mà còn tỏ vẻ khiêu khích, căng 2 chân trước, toàn thân hơi ngả ra sau. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao lim dim đôi mắt làm bộ cười, vẫy đuôi tỏ vẻ rộng lượng: “Đi đi, anh bạn trẻ kia. Mày đẹp trai và khoẻ mạnh như vậy, thực lòng tao không nhẫn tâm giết mày đâu.” Cang-rư-sân-cơ không đếm xỉa đến đối phương, lông gáy dựng lên, nó chuẩn bị vồ.
 

ohcuey

Member
Khoan đã! Chúng nghe thấy 1 tiếng kêu. Đó là tiếng người, tiếng kêu của đứa bé ở trần đi chân đất. Thằng bé không đợi được nữa. Nó muốn bầy Ngao Tạng nhanh chóng cắn chết Cang-rư-sân-cơ rồi đi đuổi 7 đứa trẻ kẻ thù đến từ Thượng Ama. Vì vậy, thằng bé kêu lên: “Na-rư! Na-rư!” Thằng bé biết hổ đầu Tuyết Ngao là Ngao Vương của thảo nguyên Xi-chia-cu, nhưng không biết rằng, càng là Ngao Vương, lại càng không cần nôn nóng ra tay. Ngao Vương cần tỏ ra là 1 thủ lĩnh, đe doạ chán chê rồi mới vồ, mà đã vồ là thành công, cắn 1 miếng là đối phương chết ngay lập tức. Thằng bé vừa thất vọng vừa ngạc nhiên. Nó cho rằng Ngao Vương của thảo nguyên Xi-chia-cu không dám ra tay với kẻ xâm phạm trẻ trung tráng kiện, đường đường uy nguy kia.

Nó không nhẫn nại được nữa và kêu to: “Na-rư! Na-rư!”

Con Ngao Tạng tên là Na-rư nghe thấy nhảy từ trong bầy ra. Đó là 1 con Ngao Tạng cái có cái đầu sư tử, toàn thân đen nhánh. Thằng bé từng nuôi nó và chị nó lúc còn rất bé. Ai đã từng nuôi chúng đều là chủ chúng. Vì vậy nghe thằng bé vừa gọi nó đã nhảy ra khỏi bầy. Sau khi nhảy ra mới biết thằng bé lưng trần muốn nó làm gì. Tuy hơi do dự, nhưng nó vẫn theo tay chỉ của chủ cũ, vượt qua tuyến đối trận giữa Ngao Vương và đối thủ, không hề sợ hãi xông vào Cang-rư-sân-cơ.

Con Cang-rư-sân-cơ không ngờ cuộc chiến giữa những kẻ mạnh mà nó háo hức khao khát, trận chiến ngông cuồng thách thức Ngao Vương Xi-chia-cu này còn chưa bắt đầu đã vội kết thúc. Nó đứng nghệt ra, đến khi bị con Ngao đen Na-rư to như con bê húc cho vài cái ngã lăn ra đất, nó vẫn chưa hiểu sao kẻ vồ mình không phải Ngao Vương đang chằm chằm nhìn mình mà là 1 con Ngao cái mình không trêu tức nó bao giờ. Nó nhảy dựng lên, trốn tránh những miếng vồ cắn của đối phương hệt như Ngao dực già màu xám vừa bị nó đánh bại đã làm.

Thằng bé lưng trần lại kêu: “Cô-rư! Cô-rư!”

Cô-rư xuất hiện. Nó là chị ruột của Na-rư, cũng là 1 con Ngao cái to như con bê, đen thui. Cang-rư-sân-cơ còn chưa nhìn rõ nó từ đâu đến đã bị nó húc cho 1 cái. Thừa cơ, con Ngao đen Na-rư lại xông vào như bão táp.

Con Cang-rư-sân-cơ bị húc ngã xuống đất, lần này nó không dậy được ngay, vì trên mình nó là 2 con Ngao cái đen như mực đè lên, khiến nó khó lòng lật lại dùng 4 chân to khoẻ chống xuống đất. Lẽ ra nó có thể sử dụng những chiếc răng sắc nhọn nhanh như chớp cắn 2 con ngao cái để vùng dậy, nhưng nó không làm vậy. Trong xã hội loài người thường dùng câu: “Đàn ông không chèm chấp đàn bà” để chữa ngượng thì tại thế giới của giống Ngao Tạng Hi-ma-lay-a này đó lại là 1 quy tắc bất di bất dịch. Những con Ngao đực không bao giờ đánh nhau với Ngao cái. Hơn nữa, đây lại là 2 con Ngao cái đẹp biết chừng nào. Nếu gặp phải sự tấn công đến từ Ngao cái, nhường nhịn và rút lui là sự lựa chọn duy nhất của Ngao đực.

Cang-rư-sân-cơ kiên quyết tuân thủ nguyên tắc của tổ tiên di truyền lại. Chính vì vậy, nó lâm vào tình thế tính mạng bị đe doạ. Nó cảm thấy có phần khó hiểu và hoang mang: Sao Ngao Tạng của Xi-chia-cu lại như vậy nhỉ? Chúng hình như đến từ 1 thế giới khác, những luật lệ trời định cho xã hội loài Ngao không hề thấm vào máu chúng. Cang-rư-sân-cơ không biết đó là do con người đóng vai trò xấu. Hễ loài người tham gia vào, rất nhiều quy tắc của giới động vật đều trở thành thói quen tật xấu. Nó càng không biết, loài người mà nó phục tùng và yêu tha thiết (lúc này, đại diện cho loài người là đứa bé ở trần) đang đẩy số phận nó vào cục diện nguy hiểm hơn. Đứa trẻ ở trần vung tay: “Ao-tô-chi! Ao-tô-chi!” Nó muốn tất cả đàn chó xông lên cắn Cang-rư-sân-cơ. Bọn Ngao Tạng nhảy lên chồm xuống một cách bất an, chen chúc vào nhau. Chỉ có Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao như không có cảm giác gì nên nằm xuống. Nó không hài lòng chút nào và gọi 2 con Ngao cái đen đang điên cuồng cắn xé trở về. Bọn Ngao Tạng thấy đại vương như vậy, dần yên lặng trở lại.

Những con chó Ngao lãnh địa thảo nguyên Xi-chia-cu không cho phép mình nghe bất kỳ mệnh lệnh nào đến từ một cá nhân. Còn những con chó Tạng lâu la, chúng chẳng có lý trí. Chúng bị kích động hăng máu bởi tiếng kêu: “Ao-tô-chi! Ao-tô-chi!”. Chúng chạy vòng quanh Cang-rư-sân-cơ, vừa đúng lúc 2 con Ngao cái rời Cang-rư-sân-cơ bởi tiếng gọi của Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao, bầy chó Tạng đồng loại xông vào. Chúng đè chồng lên nhau, con nào cũng muốn dùng răng sắc nhọn của mình cắn con Ngao Tạng ngoại lai một miếng.

Cang-rư-sân-cơ không còn đứng dậy được nữa. Sau khi bị 2 con Ngao cái cắn chí mạng, sự cắn xé của bầy chó Tạng trở thành tín hiệu của tử thần. Tín hiệu này không ngừng lập đi lập lại, khiến vết thương trên người nó đan thành 1 chiếc lưới đánh cá, thực là trăm ngàn vết thương.

Xung quanh dần trở lại yên tĩnh. Kể cả những con chó Tạng thích sủa inh ỏi cũng không sủa nữa. Không còn nghi ngờ gì nữa. Sự yên tĩnh là 1 điềm không may đối với 7 đứa trẻ Thượng Ama đang trốn sau 1 đồi cỏ nhìn từ xa. Chúng lặng lẽ mò về muốn cứu con Cang-rư-sân-cơ. Thằng bé ở trần dường như dùng lưng cảm nhận được sự có mặt của kẻ thù. Nó quay phắt lại, ánh mắt sắc lạnh như chim ưng, kêu lên: “Kẻ thù Thượng Ama! Kẻ thù Thượng Ama!” Bầy chó lại náo loạn lên, kể cả những con Ngao Tạng và chó lãnh địa Xi-chia-cu đều xông vào vồ 7 đứa trẻ.

7 đứa trẻ quay lưng chạy thục mạng, cùng đồng loạt kêu: “Ma-ha-cơ-la-pân-sân-pao! Ma-ha-cơ-la-pân-sân-pao!” Cha tôi tay xách túi du lịch đứng trước cửa vọng gác nhìn theo, cảm thấy rất lạ. Hễ tiếng kêu của 7 đứa trẻ phát ra, tốc độ đuổi theo của bầy chó sẽ giảm ngay. Thậm chí những con chó to lớn (kể cả Ngao Tạng, trong đó có Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao) không đuổi nữa. Chúng lắc đầu vẫy đuôi, xoay vòng tại chỗ.

Thằng bé ở trần cũng thấy lạ, nó chạy về phía trước, kêu lên: “Ao-tô-chi! Ao-tô-chi!”. Lúc này cha tôi đã hiểu. Đó là tiếng xui khiến đàn chó đi đuổi cắn kẻ địch. Ông sợ 7 đứa trẻ chạy không kịp. Ông kêu lên với thằng bé: “Cháu làm gì vậy? Bọn trẻ theo chú đến đây mà.”

Cha tôi vừa nói xong, cánh cửa vọng gác sau lưng ông bật mở. 1 cánh tay thò ra kéo cha tôi vào.
 

ohcuey

Member
Trong nhà vọng gác có mười mấy người đang ngồi. Nam có, nữ có, có người là quân nhân, có người là dân địa phương. Dù là quân nhân hay dân địa phương, họ đều là thành viên uỷ ban công tác Xi-chia-cu. Họ đang ngồi họp. Người quân nhân kéo cha tôi vào hỏi với giọng nghiêm nghị: “Anh là ai? Kêu lung tung gì vậy?” Cha tôi vội lấy giấy giới thiệu ra. Người đó không xem, đưa cho 1 người đeo kính. Người đeo kính xem kỹ 2 lần rồi nói: “Thưa Bạch chủ nhiệm, anh ta là phóng viên.” Người quân nhân vừa kéo cha tôi vào, tức Bạch chủ nhiệm nói: “Phóng viên? Phóng viên cũng phải chịu sự quản lý của chúng tôi. Mấy đứa trẻ kia có phải do anh đưa đến không?” Cha tôi gật đầu. Bạch chủ nhiệm lại nói: “Anh không hiểu rõ kỷ luật của chúng tôi sao?” Cha tôi hỏi lại: “Kỷ luật gì?” Bạch chủ nhiệm nói: “Thôi ngồi xuống, anh cùng họp với chúng tôi.”

Cha tôi ngồi trên 2 túi hành lý của mình. Bạch chủ nhiệm nói cho cha tôi rõ, thảo nguyên Chinh-cô-ama có tất cả 32 bộ lạc lớn nhỏ, phân bố tại Chia-cu Tây, Chia-cu Đông, Ama Thượng, Ama Hạ và 5 địa phương Tô-mi. Các bộ lạc thảo nguyên Chia-cu Tây và bộ lạc thảo nguyên Ama Thượng là kẻ thù truyền kiếp, hễ giáp mặt nhau là có xung đột. Thế mà cha tôi lại đưa những đứa trẻ từ thảo nguyên Ama Thượng đến Chia-cu Tây, lại còn muốn ngăn người Chia-cu Tây đánh đuổi người Ama.
Cha tôi nói: “Nhưng họ chỉ có 7 người, nguy hiểm lắm!”

Bạch chủ nhiệm nói: “Những người ở đây chỉ muốn đuổi họ đi thôi. Còn nếu thực sự đánh nhau, theo luật của thảo nguyên thì phải 1 chọi 1. 7 đứa trẻ kia nếu đứa nào cũng lợi hại, chúng không đến nỗi bị thiệt đâu.”

Cha tôi nói: “Thế còn chó thì thế nào? Chó đâu có hiểu luật 1 chọi 1. Bao nhiêu chó ùa lên, làm sao tôi thấy mà khoanh tay đứng nhìn được.”

Bạch chủ nhiệm không đếm xỉa đến việc của bầy chó, ông xạc cha tôi: “Anh phải rõ, chúng ta không can thiệp vào những tranh chấp ân oán giữa các bộ lạc, đây là kỷ luật sắt. Anh nên hiểu, ở thảo nguyên Chia-cu Tây, chúng ta được các tù trưởng và quân chúng du mục hoan nghênh. Nguyên nhân cốt lõi là chúng ta áp dụng chính sách cô lập đối với thảo nguyên Ama Thượng. Tù trưởng mấy bộ lạc Ama Thượng trước đây đi theo bọn quốc dân đảng, trung đoàn kỵ binh của Mã Bộ Phương đã từng đóng quân tại thảo nguyên Ama Thượng. Trung đoàn trưởng còn lấy em gái tù trưởng làm thiếp.”
Cha tôi phân vân: đã không can thiệp vào mâu thuẫn của họ, sao lại còn cô lập đối phương? Nhưng cha tôi chưa kịp nói ra thắc mắc đó thì hương vị thơm ngon của trà sữa đã làm đứt mạch tư duy của ông. Ấm trà sữa đang được đun trên 1 cái bếp lò bằng đất. Một cô gái đưa mời cha tôi 1 bát. Cô gái mặc bộ áo xanh lam, trông như nữ sinh, rất xinh đẹp, lời nói cũng dịu dàng: “Anh uống đi, trên đường chắc vất vả lắm.” Cha tôi uống cạn 1 hơi bát trà sữa, không yên tâm đứng lên nhìn từ cửa sổ ra ngoài.

Trên dốc bãi cỏ, không thấy bọn trẻ. Người đuổi và người trốn đều đã chạy xa. Mấy trăm con chó lãnh địa các loại vừa kết thúc cuộc giằng xé đang nhanh chóng rời khỏi đây. Sau lưng chúng, ánh chiều tà chiếu xuống thảo nguyên một màu xanh biết. Một đống lông màu vàng óng đang theo gió phần phật, trông thật bắt mắt. Cha tôi nói: “Chắc nó bị cắn chết rồi. Để tôi đi xem sao.” Vừa nói, ông vừa đi nhanh ra ngoài.

Cha tôi đến bãi cỏ, chỗ nào cũng có vết máu, đặc biệt bên cạnh vạt cỏ con Cang-rư-sân-cơ ngã xuống, máu tràn ra đông lại đè cả cỏ xuống. Ông nhớ lại cảnh ác chiến của đàn chó. Con Cang-rư-sân-cơ cao to oai phong như chúa sơn lâm này bị cả 1 bầy chó Tạng cắn chết tươi. Bất giác ông rùng mình. Ông ngồi xuống vuốt vuốt lông Ngao vàng óng nhưng không còn mịn màn của nó. Tay ông dính đầy máu. Ông chùi tay vào chỗ lông không dính máu của nó rồi định rời đi. Bỗng thấy đùi trước của Cang-rư-sân-cơ co giật 1 cái, rồi lại lần nữa, cha tôi ngạc nhiên: Nó chưa chết sao?

Trời xâm xẩm tối, sau khi tan họp, “Mắt Kính” đến dốc bãi cỏ tìm cha tôi và nói: “Chủ nhiệm Bạch thấy anh mới đến chân ướt chân ráo, không am hiểu quy tắc địa phương nên để anh ở cùng với chủ nhiệm.” Hoá ra thành viên trong uỷ ban công tác Chia-cu Tây đều tản ra ở chung với dân du mục trong nhà bạt. Chỉ có Bạch chủ nhiệm và anh văn thư đeo kính là ở nhà vọng gác có tường trắng phết phân bò đen. Nhà vọng gác này là của tù trưởng bộ lạc sông Dã-la, không những dùng làm chỗ ở mà còn làm phòng họp, coi như tổng hành dinh của uỷ ban. Cha tôi nói: “Được thôi, nhưng con chó này thì sao đây?” Mắt kính hỏi: “Anh muốn thế nào?” Cha tôi nói: “Đây dù gì cũng là 1 mạng sống, tôi phải cứu nó.” Anh ta nói: “Có lẽ không được đâu. Đây là chó của Ama Thượng. Anh sẽ phạm sai lầm đấy.”

Cha tôi quay về nhà vọng gác. Mắt kính từ giữa thảm lôi ra 1 cái thùng gỗ, trong đó đựng bột mỳ thanh khoa đã đảo qua chảo. Chỉ cần trộn trà sữa vào, thêm chút bơ là được 1 bát bột sền sệt, dân Tây Tạng gọi là zan-ba, thức ăn chính thay cơm của dân Tạng. Đấy là bữa tối. Trong lúc ăn, Bạch chủ nhiệm tranh thủ giảng giải cho cha tôi những quy tắc luật lệ của thảo nguyên. Nào là vào nhà bạt của dân du mục lúc ngồi không được để lưng hướng vào Phật đàn vì sau gáy có hơi thối của người xông ra; không được duỗi chân hất xì hơi và nói tục ở Phật đàn vì Phật ưu thể diện và thích sạch sẽ. Không đi qua bên trái của gò đá khắc kinh Ma-ni, vì đó là đường đi của thần Đất và thần Thanh Khoa. Không được bắt cá và ăn cá, vì khi người chết thuỷ táng, chính những con cá là sứ giả dẫn dắt linh hồn người chết, vị trí của nó chỉ thua con chim ưng đầu trọc khi người chết thiên táng. Không được ăn thức ăn xào bằng dầu mỡ vì sẽ làm hoen ố thức ăn do thần ban cho. Không được ăn thịt súc vật vừa mới giết mổ vì linh hồn của chúng chưa lên trời. Không được bắt chim, đánh rắn, hành hạ súc vật, vì kiếp trước chúng là người thân của mình. Không được phép vỗ vào vai người đàn ông vì trên vai họ có thần chiến hoặc thần thù địch. Không được phơi phóng quần áo trên nhà bạt vì Không Hành Mẫu Thần đem lại cát tường đang ở trên đó. Không vào nhà bếp khi lò đang toả khói cháy những cục phân ẩm ướt, đấy là dấu hiệu trong nhà có người ốm. Không được bước qua bếp lửa vì đấy là hành động đắc tội với thần bếp. Không được phép đại tiểu tiện trong chuồng gia súc vì con quỷ vác cái túi đựng đầy dịch bệnh sẽ mượn những thứ ô uế bẩn thỉu để phát tán hơi độc. Không được giúp dân du mục làm chè bơ vì thần chè bơ không thích người lạ. Không được đánh chó của dân cũng như những con chó hoang, vì chó là hình bóng của con người. Thậm chỉ ở trong nhà bạt cũng không được trung tiện, vì Bảo chướng hộ pháp nghe thấy mùi ô uế sẽ rời khỏi nhà. Bạch chủ nhiệm cuối cùng đưa ra kết luận: “Anh nhất thiết phải rút ra bài học, không được dính líu gì đến những người thảo nguyên Ama Thượng.” Cha tôi vừa nói “phải”, vừa gật gù, nhưng trong lòng ông vẫn vương vấn đến con Ngao Cang-rư-sân-cơ.
 

ohcuey

Member
Khi sắp mở hành lý, lôi chăn ra ngủ, cha tôi lấy cớ đi tìm ngựa, lại lẻn đến gò cỏ. Ông vuốt con Cang-rư-sân-cơ đẫm máu. Hình như biết có người vuốt ve, nó động đậy 1 cái, rồi lại tiếp 1 cái, lần này là lỗ tai. Tai nó cứ động đậy, như là cầu xin sự sống.

Cha tôi quỳ xuống đất muốn bế nó dậy, nhưng cố hết sức cũng không bế nổi. Ông dứng dậy chạy về nhà vọng gác, nói với Mắt Kính: “Anh giúp tôi khiên con chó về. Nó chết rồi, da của nó dầy và ấm lắm.” Mắt kính nghiêm túc nhìn Bạch chủ nhiệm. Trầm ngâm 1 lúc, Bạch chủ nhiệm nói: “Nó là chó của Ama Thượng, lột da nó, tôi nghĩ cũng được.”

Cha tôi tìm thấy con ngựa hồng tía đang ăn cỏ trước nhà vọng gác. Ông kéo nó đến gò cỏ, cùng Mắt kính khiên con Cang-rư-sân-cơ đặt lên lưng ngựa. Anh ta nói nhỏ: “Sao anh dám lừa Bạch chủ nhiệm?” Cha tôi nói: “Sao lại không dám?”

Họ bế con Cang-rư-sân-cơ từ lưng ngựa xuống, đặt nó trong chuồng ngựa dưới tầng nhà vọng gác. Cha tôi nói: “Uỷ bang công tác Chia-cu Tây có bác sĩ không?” Anh ta trả lời: “Có chứ, ở trong nhà bạt dưới núi.” Cha tôi hỏi: “Anh đưa tôi đi được không?” Mắt kính nói: “Bạch chủ nhiệm biết được sẽ trách tôi. Hơn nữa, tôi sợ chó lắm. Trời tối như mực thế này, chó của người chăn cừu tưởng trộm sẽ cắn đấy.”

Cha tôi do dự, ông xem xét kỹ Cang-rư-sân-cơ và nói: “Anh về đi, nếu Bạch chủ nhiệm hỏi thì anh nói tôi đang lột da chó.”

Cha tôi không chút sợ hãi, cứ theo hướng chân núi mà đi. Kỳ thực ông cũng rất sợ chó, đặc biệt là khi chứng kiến con Cang-rư-sân-cơ như con mãnh sư bị cắn xé gần chết thì ông biết chó của thảo nguyên Chia-cu Tây lợi hại dường nào. Nhưng ông vẫn đi. Lòng thương cảm đã thắng sự sợ hãi. Hoặc cha tôi bẩm sinh đã có những mối liên hệ thần bí với loài động vật, đặc biệt là Ngao Tạng, khiến ông càng sợ lại càng muốn tiến lên.

Cách nhà bạt còn khá xa đã nghe thấy tiếng những con chó sủa ầm ĩ. Không chỉ 1 mà là bốn, năm con. Cha tôi vội đứng lại gọi to: “Bác sĩ! Bác sĩ ơi!” Tiếng chó sủa át cả tiếng cha tôi. Cha tôi đành im lặng, đợi lũ chó không sủa nữa, ông lại gọi to: “Bác sĩ! Bác sĩ ơi!” Đàn chó ùa chạy về phía cha tôi, nhưng bóng đen trông như bóng ma. Chúng vây quanh cha tôi thành nửa vòng cung cản bước cha tôi. Tim ông đập thình thình như gõ trống. Ông biết lúc này nếu tiến lên, lũ chó sẽ vồ vào, nếu lùi lại, chúng cũng sẽ vồ. Lựa chọn duy nhất là đứng yên lại chỗ. Nhưng mục đích của cha tôi là đến tìm bác sĩ, đứng yên tại chỗ thì được tích sự gì. Ông run cầm cập nói: “Chú mày đừng cắn nhé, đừng cắn! Ta không phải trộm, ta là người tốt mà.” Cha tôi vừa nói vừa khẽ nhích tới. Quả nhiên lũ chó không vồ cắn ông, trái lại, chúng lùi ra sau. Cha tôi hơi ngạc nhiên: “Chẳng lẽ chúng nghe hiểu ta nói gì?” Bất ngờ đằng sau có tiếng động. Ông sợ đến toát cả mồ hôi, quay ngoắt đầu lại, thấy 1 bóng chó màu đen hình như sắp vồ đến. Cha tôi ối một tiếng, định tìm đường chạy thì nghe thấy tiếng ai cười khanh khách. Hoá ra cái bóng đứng lên, là người, không phải chó. Một đứa trẻ xuất hiện, chính là đứa trẻ ban ngày thấy 7 đứa trẻ Ama Thượng 2 mắt trợn tròn nảy lửa căm thù. Đêm trở lạnh như trời mùa thu, nhưng nó vẫn để trần và đi chân đất. Cái áo cuốn ngang lưng nó trở nên thừa. Nó cười rồi đi trước, đi được vài bước lại quay nhìn cha tôi. Cha tôi vội bám theo sát nó.

Những cái bóng chó trông như ma quỷ chớp mắt đã biến đâu mất. Thằng bé ở trần dẫn cha tôi đến 1 cái nhà bạt màu đen dựng bằng lông bò. Nó dừng lại để cha tôi vào. Cha tôi cảm giác trong nhà cũng có chó, đứng đấy không dám nhúc nhích. Thấy vậy, đứa trẻ ở trần hất rèm cửa chui vào. Nó khẽ gọi: “Mây-tô-la-mu, cô Mây-tô-la-mu.” Một lúc sau, bác sĩ Mây-tô-la-mu khoác túi thuốc đi ra. Hoá ra là cô gái ban ngày mời cha tôi uống chè sữa. “Có i-ốt không?” Cha tôi hỏi. Mây-tô-la-mu hỏi lại: “Sao?” Cha tôi nói: “Vết thương nặng lắm, toàn thân toàn là máu.” “Đâu? Để tôi xem cho.” Cha tôi nói: “Không phải tôi, là Cang-rư-sân-cơ.” “Cang-rư-sân-cơ là ai?” Cha tôi nói: “Là con chó.”

2 người đến chuồng ngựa dưới nhà vọng gác. Mây-tô-la-mu lôi từ trong hòm thuốc ra cái đèn pin, bảo cha tôi soi vào. Cô xem vết thương của Cang-rư-sân-cơ rồi nói: “Muộn quá rồi, vết thương sâu như vậy, máu chảy gần hết.” Cha tôi nói: “Nhưng nó chưa chết!” Mây-tô-la-mu lấy cồn lau vết thương cho chó, rắc một ít bột thuốc sát trùng vào rồi dùng băng vải băng những vết thương nặng nhất như cổ, lườn bên phải và sau mông. Mây-tô-la-mu nói: “Đây là chữa trị mang tính an ủi. Tôi bôi thuốc giúp anh, còn nếu anh chưa chịu thì dùng i-ốt bôi 1 lượt. Sau đó…” Vừa nói, cô vừa đưa cho cha tôi 1 lọ i-ốt. “Sau đó thì sao?” Cha tôi vội hỏi. “Sau đó anh cõng nó lên núi, bón cho chim ưng.”

Mây-tô-la-mu và cha tôi đi ra chuồng ngựa. Bỗng thấy 2 bóng người chắn trước mặt: Bạch chủ nhiệm và Mắt kính. Cùng lúc đó, cách không xa, 1 bóng đen quen thuộc, thằng bé ở trần đi chân đất đứng đó. Trên khuôn mặt nó hiện lên sự hận thù với Cang-rư-sân-cơ.

Dường như tính bướng bỉnh của cha tôi có từ lúc lọt lòng. Ngay bản thân ông cũng thấy ngạc nhiên: Sao mình lại thế nhỉ? Bạch chủ nhiệm càng phê bình gay gắt thì cha tôi lại càng không nghe. Bạch chủ nhiệm nói: “Nhiệm vụ của chúng ta là tìm hiểu dân tình, tuyên truyền chính sách, liên kết với tầng lớp trên, tranh thủ lòng dân, cố gắng hết sức trong một thời gian ngắn đứng vững tại đây. Anh làm như vậy sẽ khiến uỷ ban công tac mất chỗ đứng tại thảo nguyên Chia-cu Tây. Ngày mai anh về đi! Chúng tôi không cần đến người như anh!.” Cha tôi nói: “Tôi là phóng viên, không chịu sự quản lý của anh. Không cần đợi đến ngày mai, tôi đi ngay! Từ giờ trở đi, tôi làm gì không liên quan đến uỷ ban công tác.” Vừa nói cha tôi vừa đi vào nhà vọng gác, ôm bọc hành lý ra. Bạch chủ nhiệm tức giận đến nỗi môi run run. “Tốt! Thế càng tốt! Tôi sẽ phản ánh lên cấp trên, sẽ có người quản anh!” Nói xong ông quay ngoắt lại, đóng sầm cửa vào.

Mây-tô-la-mu nói khẽ với cha tôi: "Sao anh lại làm thế? Bạch chủ nhiệm nói có lý đấy. Đừng nên vì một con chó mà ảnh hưởng đến công việc chung. Mau đi xin lỗi đi.” Cha tôi hừ 1 tiếng, không nói không rằng. Thực ra cha tôi cũng rất hối hận đã cãi lại Bạch chủ nhiệm, nhưng đã cãi rồi thì phải làm ra vẻ coi trời bằng vung. Mây-tô-la-mu lắc đầu định đi. Mắt kính nói: “Tôi đưa chị về, lần sau chớ ra ngoài nữa.” “Tôi là bác sĩ, phải đi khám bệnh.” Mắt kính nói: “Tối ra ngoài bị chó cắn thì làm sao? Hơn nữa chị là bác sĩ chứ có phải thú y đâu.”
 

ohcuey

Member
Tối hôm đó, cha tôi ờ lỳ trong chuồng ngựa. Ông trải chăn nằm giữa con ngựa hồng đứng ngủ và con Cang-rư-sân-cơ vẫn hôn mê.

Nằm xuống rồi mà cha tôi vẫn trằn trọc, óc rối tinh rối mù, nghĩ nhiều không phải tới Bạch chủ nhiệm mà là đứa bé ở trần. Ông biết đứa bé sẽ không tha đâu. Con Cang-rư-sân-cơ sẽ chết. Trừ khi ngày mai ông rời Chia-cu Tây đem theo nó. Nhưng con chó to sắp chết này, ông mang đi bằng cách nào? Thôi vậy cứ kệ nó, ta đi đường ta. Nhưng nghĩ lại, nếu không phải vì Cang-rư-sân-cơ, ta có nhất thiết phải rời Chia-cu Tây không? Có cần thiết đối đầu với Bạch chủ nhiệm không?

Trời gần sáng cha tôi mới thiếp đi, sau đó ngủ như chết.

Sáng tinh mơ, một vị lạt ma già tên là Tuân-ca từ trên ngôi chùa toạ lạc tại điểm cao nhất của núi vọng gác đi xuống, trên lưng võng một túi da đựng đầy tim, phổi dê, bò hong khô. Ông theo đường mòn trên núi xuống, dừng lại ở nhà vọng gác của uỷ ban công tác, đứng trước chuồng ngựa nhìn cha tôi đang ngủ say và con Cang-rư-sân-cơ mình đầy thương tích đã được băng bó. Sau đó ông lại nhìn sông Dã-la dưới núi rồi lẳng lặng đi tiếp.

Trong vịnh nước cạn gần sông Dã-la, trên nóc nhà bạt dưới chân núi, khói lam đang toả. Đàn bò, cừu cũng đã thức giấc. Tiếng kêu của chúng làm huyên náo cả 1 vùng. Chó của dân du mục chia làm 2 loại: những con chó chăn cừu đã được nghỉ ngơi 1 đêm, đang chuẩn bị đi theo bảo vệ đàn gia súc. Chúng hưng phấn chạy tới chạy lui, muốn nhanh chóng lùa đàn gia súc đến bãi cỏ. Còn những con chó canh đêm thì rời đàn gia súc mà chúng canh giữ suốt đêm đến nằm trước cửa nhà bạt. Nhiệm vụ của chúng là trông nhà và ngủ bù. Đầu sông, trên 1 bải đất có những hòn sỏi và cỏ may, 1 bầy chó lãnh địa có đến mấy trăm con đang ngóng chờ ông già Lạt-ma đến. Cuộc sống vẫn như vậy, không khác gì hôm qua, chỉ trừ ông già lạt ma thấy trong lòng bất an.

Tâm trí ông bất ổn chính vì sự tồn tại của những con chó lãnh địa. Chó lãnh địa là những con chó lang thang, nhưng chúng chỉ lang thang trên phần lãnh địa của mình. Đàn chó đông đúc không ngừng sinh sôi nảy nở này hành động theo ý muốn của con người. Chúng cho rằng trung tâm của thảo nguyên Chinh-cô-ama bát ngát này, thảo nguyên Chia-cu Tây, là lãnh địa bất khả xâm phạm của chúng. Bất kỳ con chó ngoại lai nào đừng hòng có cơ may sống trên mảnh đất này. Nghĩa là: chó chăn cừu bảo vệ đàn gia súc, chó trông nhà bảo vệ nhà bạt và nhà vọng gác, chó lãnh địa bảo vệ toàn bộ thảo nguyên Chia-cu Tây. Chó lãnh địa suốt đời không được rời khỏi thảo nguyên của mình, dù chúng chết đói, hoặc trở thành động vật hoang dã, kể cả trở thành con chó ghẻ mà ai thấy cũng ghê tởm. Bởi vì dù nó mạnh mẽ đến đâu, một khi đã rời khỏi thảo nguyên mà nó bảo vệ và sinh sống thì chó lãnh địa nơi khác sẽ cắn chết nó.

Chó lãnh địa không phải chó hoang, chó hoang không được người cho ăn. Chó lãnh địa săn mồi trên thảo nguyên như những con dã thú khác, ngoài ra chúng còn được con người cho ăn tại 1 thời gian và địa điểm cố định. Hành động con người con chúng ăn nhìn bên ngoài xuất phát từ tôn giáo và tấm lòng lương thiện, nhưng thực tế, con người lợi dụng sự dựa dẫm của chúng nhằm củng cố mối quan hệ với chúng để dựa vào nhau. Chó lãnh địa không phụ thuộc một cá nhân nào, nhưng ý chí của con người lại thể hiện rõ ràng và chính xác trong nhất cử nhất động của chúng. Ngoài các gia đình du mục, nhà chùa, vị lạt ma già, còn có người của chùa Chia-cu Tây chuyên trách vứt thức ăn cho chó lãnh địa.

Vị lạt ma già đến bãi bồi ở sông Dã-la, ông rút dao dắt lưng ra, cắt tim phổi bò, dê thành từng miếng trên 1 tấm đá rồi cho bầy chó từng miếng một. Bỗng nhiên thằng bé ở trần men theo chỗ nước cạn hùng hục chạy đến. Thấy nó, vị lạt ma già lặng đi. Ông kêu lên 1 tiếng: “Hỏng rồi!”

Đứa bé ở trần kêu to: “Na-rư! Na-rư!” Con Ngao đen to như con bê Na-rư chạy đến ngay. Thằng bé vứt mẩu đuôi cừu béo ngậy cho nó. Nó nhảy lên đớp lấy, vừa ăn ngấu nghiến vừa nhìn thằng bé. Nó linh cảm thấy người chủ cũ không đến đây chỉ để vứt cho nó cái đuôi cừu. Nhất định có việc gì đây. Cũng như trước đây, đưa nó cùng đi sâu vào thảo nguyên săn bắn, hoặc tìm một vật gì mà chủ nó không tìm thấy. Nếu không thì là đi đánh nhau. Như hôm qua chẳng hạn, sai nó đi cắn xé trước cả Ngao Vương kẻ đồng loại dám cả gan xâm phạm lãnh địa. Nó tấn công mạnh mẽ, rồi cắn xé. Na-rư hiểu rằng việc của chủ nó lúc này còn quan trọng hơn việc ăn uống của nó, nên chẳng kịp nhai, nó nuốt chửng cả lòng và thịt đuôi cừu vào bụng. Thấy chủ chạy thục mạng phía trước, chạy được mấy bước quay lại vẫy tay gọi: “Na-rư! Na-rư!”, Ngao đen Na-rư tung 4 chân khoẻ khoắn phi theo thằng bé. Vị lạt ma già nhìn theo người và chó mất hút trong đường hẹp giữa các nhà vọng gác, ông vội vã về chùa.


Trong đại sảnh của điện phật Ya-pu-you-mu, lạt ma già Tuân-ca nói với trụ trì chùa Chia-cu Tây, Phật sống Tan Trân rằng, tối qua, ông mơ thấy 1 con Ngao đực có bộ lông vàng óng, đẹp và hùng vĩ như chúa sơn lâm đến thỉnh cầu ông cứu mạng nó. Con Ngao đực vàng óng nói kiếp trước nó là con sư tử trên núi tuyết A-ni-ma-chinh, đã từng bảo vệ những vị tăng tu hành trên núi tuyết. Ông lạt ma già còn nói, sáng nay, ông thấy trong chuồng ngựa 1 người Hán lạ mặt và 1 con Ngao đực sư đầu màu vàng ngoại lai bị thương nặng. Bên bờ sông Dã-la, ông thấy thằng bé ở trần gọi con Ngao đen Na-rư đi. Phật sống Tan Trân hỏi lại: “Người nói người nằm mơ thấy sư tử núi tuyết chính là con Ngao đực sư đầu ư?” Vị lạt ma già gật đầu: “Đúng vậy, nó đang nguy hiểm lắm. Chúng ta phải cứu nó thế nào?” Phật sống Tan Trân hiểu vấn đề thật nghiêm trọng, vọi gọi mấy vị phật sống đến cùng bàn bạc. Kết quả là 3 vị lạt ma gậy sắt được phái đi bảo vệ con Ngao đực sư đầu kiếp trước là sư tử núi tuyết A-ni-ma-chinh và người Hán ngoại lai. Lạt ma gậy sắt là hiện thân của hộ pháp kim cương trong chùa Chia-cu Tây, là người thi hành luật lệ của thảo nguyên và thực hiện ý chí của nhà chùa. Trên thảo nguyên Chinh-cô-ama bao la rộng lớn này, chỉ có lạt ma gậy sắt mới được phép đại diện cho ý chí của các vị thần, tuỳ ý trừng phạt các sinh linh, trong đó có cả Ngao Tạng. Sự trừng phạt của kẻ khác không phải là không được, nhưng không thiêng liêng. Sự trừng phạt đó không phải do ý muốn của thần thánh, đương nhiên không được xem là thay trời hành đạo, không thể tránh được báo ứng.

 

ohcuey

Member
Một tiếng gầm như sấm làm cha tôi tỉnh giấc. Ông ngồi bật dậy đã thấy 1 con Ngao đen to bằng con bê nhảy xổ vào con Cang-rư-sân-cơ. Theo bản năng, ông tung chăn ra trùm vào đầu con Ngao đen. Không kịp tránh nó, ông đứng khựng lại, ra sức co kéo nó ra ngoài chuồng. Con Ngao đen Na-rư ý thức ngay được kẻ địch của nó không chỉ là con Ngao đực sư đầu đang hấp hối kia mà còn có chủ nó, một người Hán. Nó lắc mạnh tung được cái chăn ra rồi sủa, không phải sủa cha tôi, mà hướng về phía sông Dã-la trước nhà vọng gác sủa.

Sau này cha tôi kể, tiếng sủa của con Ngao đen Na-rư trong ngôn ngữ của loài Ngao Tạng. chắc chắn nó đang nhắc đến ông, nhắc đến con ngựa hồng tía. Đàn chó lãnh địa đang ở nơi xa nghe thấy nó sủa hiểu ngay. Chúng sủa gâu gâu đáp lại và chạy dồn cả về nhà vọng gác. Nhoáng cái, 1 lũ chó đã từ bãi sông Dã-la chạy đến.

Cha tôi tuyệt vọng kêu lên: “Chết rồi!” Ông vội dung chăn trùm kín con Cang-rư-sân-cơ, kéo con ngựa hồng tía không kém hoảng hốt như ông từ góc tường chuồng ngựa ra chuẩn bị nhảy lên lưng ngựa chạy trốn.

Nhưng không kịp nữa, đàn chó lãnh địa đứng kín 1 vùng chắn trước chuồng ngựa. Con Na-rư cùng chị ruột nó là Cô-rư và con Ngao đực già màu xám bị con Cang-rư-sân-cơ đánh thảm bại hôm qua đồng loạt xông vào, không nhằm vào người mà nhằm vào ngựa. Những con Ngao Tạng thông minh hiểu rằng cắn người phải cắn ngựa trước. Ngựa bị cắn đau chảy máu sẽ không chịu nghe con người điều khiển nữa, và con người sẽ không tài nào chạy thoát. Con ngựa hồng tía bỗng quay phắt lại, đá hậu một cái trúng mắt trái con Na-rư. Nó kêu lên 1 tiếng chói tai rồi lăn xuống đất, nhưng lại bật dậy ngay với sự điên cuồng gấp 10 lần. Nó xông lên, răng nanh sắc nhọn cắm phập vào mông ngựa. Con ngựa vừa hý vang 1 cách đau đớn vừa đá. Cha tôi nhìn thấy vó ngựa mấy lần đá trúng vào bụng con Na-rư, nhưng nó không nhả, ra sức kéo xoay người con ngựa lại, để ngực và bụng con ngựa phơi ra trước mặt. Thế là con Ngao đen Cô-rư và con Ngao đực xám già cùng chồm lên cắn con ngựa. Con ngựa ngã lăn xuống đất. Na-rư ngảy lên cắn ngập vào cuống họng con ngựa.

Cha tôi kêu lên 1 tiếng kinh hãi, nhảy vào góc tường. Bản năng mách bảo cha tôi chí ít có thể tránh được sự tấn công vào sau lưng. Ông run lên cầm cập, trợn tròn mắt nhìn bầy chó 1 cách tuyệt vọng. Đàn chó có con im lặng, có con không ngớt sủa, con không của thì đứng 1 bên trợ uy.

Giữa cha tôi và đàn chó là con Cang-rư-sân-cơ bị trùm kín dưới chăn. Đàn chó lãnh địa chưa phát hiện ra nó. Con Ngao đen Na-rư sau khi cắn chết con ngựa hồng tía dường như quên con Cang-rư-sân-cơ. Mục đích duy nhất của nó bây giờ là cắn chết con ngựa rồi cắn chết cha tôi.

Mồ hội cha tôi vã ra ớn lạnh. Ông nghĩ đến cái chết và sự sống. Ông không biết chết là như thế nào, không chết thì sẽ ra sao. Ông đã làm 1 việc mà suốt đời ông ân hận, đó là bán đứng con Cang-rư-sân-cơ trước sự tấn công của đàn chó đông đúc mạnh mẽ. Ông đã bán đứng con Cang-rư-sân-cơ mà ông luôn muốn bảo vệ. Khi con Ngao đen Na-rư đầy mình thương tích cùng mấy con Ngao Tạng khác nhằm vào ông há to mồm đỏ hỏn với những cái răng sắc nhọn thì ông hất tung chiếc chăn đang trùm kín trên mình con Cang-rư-sân-cơ ra.

Tất cả lũ chó sững lại, trừ con Ngao đen Na-rư. Con Na-rư mắt trái và dưới bụng đầy máu đớp ngay chiếc chăn trong tay cha tôi. Chiếc chăn này đã từng trùm vào đầu nó, nó căm ghét chiếc chăn còn hơn cả con Cang-rư-sân-cơ. Nó cắn xé tan nát chiếc chăn. Khi chăn đã nát bươm, con Na-rư cho rằng sự báo thù đã kết thúc. Giờ đây, đối tượng của nó là Cang-rư-sân-cơ và chủ của chiếc chăn. Miệng nó thở phù phù với chúng bạn. Sau này cha tôi mới biết tiếng phù phù đó là nó dặn những con chó kia: Hãy cắn chết con chó kia, ta sẽ cắn chết người này. Mấy con Ngao kia còn do dự. Chúng cho rằng con Cang-rư-sân-cơ đã bị chúng cắn chết hôm qua rồi kia mà. Trước mắt chúng chỉ là cái xác, mà chúng, những con Ngao Tạng chính khí ngất trời này không bao giờ cắn xé hoặc ăn xác đồng loại. Na-rư sốt ruột mắng chúng bạn 1 câu gì đó, nó nhảy lên.

Mục tiêu của Na-rư là cuống họng cha tôi. Cha tôi vội tránh. Cái răng sắc nhọn của nó cắm phập vào vai ông. Cha tôi kêu lên thảm thiết. Đùi ông cũng bị cắn nát, ngực cũng vậy. Tiếp đó là sự đối mặt với cái chết.

Sau đó cha tôi kể lại, nếu không phải có phép màu, hôm đó, ông đã chết dưới những cái răng sắc như dao của con Ngao đen Na-rư rồi. Phép màu đó là con Na-rư bỗng không ổn nữa. 1 bên mắt và bụng nó chảy máu đầm đìa, chảy đến mức nó cảm giác trời đất quay cuồng. Nó tuột từ trên ngực cha tôi xuống, nằm bẹp dưới đất. Tiếp đó 1 phép màu khác xuất hiện. Con Cang-rư-sân-cơ tỉnh lại. Nó đã hôn mê bất tỉnh từ hôm qua, thế mà trong khoảnh khắc cha tôi nguy hiểm nhất, nó bỗng co giật, một cái, 2 cái, 3 cái. Nó mở mắt ra, thậm chí còn cố ngẩng đầu lên. Những con Ngao Tạng đang vây quanh nó gừ gừ kêu lên. Theo sát con Na-rư là con Cô-rư và Ngao đực xám già đang định vồ cha tôi, thoắt cái chúng thay đổi mục tiêu, quay lại cắn xé Cang-rư-sân-cơ. Vì trong ý thức của chúng, tiêu diệt kẻ thù là đồng loại cấp bách hơn so với kẻ thù là loài người.

Con Cang-rư-sân-cơ đang gặp nguy hiểm. Sự nguy hiểm của nó đổi lại cho cha tôi mấy giây an toàn. Mấy giây quý báu liên quan đến mạng người và mạng chó này giúp cha tôi tránh được 2 con mãnh Ngao cắn xé chí mạng, nhưng lại khiến con Cang-rư-sân-cơ 1 lần nữa bị mổ xẻ bởi những chiếc răng sắc như dao.

Lúc này cha tôi nhìn thấy Bạch chủ nhiệm, Mắt Kính và Mây-tô-la-mu. Đàn chó lãnh địa ngăn họ lại trên mấy bậc đá của nhà vọng gác. Bạch chủ nhiệm tay lăm lăm cây súng nhưng không dám nhả đạn. Ông biết không được bắn đàn chó. Bắn chết chúng hậu quả khôn lường. Đàn chó giận dữ. Chúng phán đoán tư thế đi lại của 3 người. Chúng biết họ đến giải cứu cha tôi. Chúng nhảy lên bậc cao ép 3 người lùi về phía sau. 3 người vội lùi vào nhà vọng gác. 2 con Ngao Tạng đứng canh ở cửa. Chúng dùng cái đầu to tướng húc vào cửa, cánh cáo những người trong đó đừng dính mũi vào chuyện của người khác.
 

ohcuey

Member
Một lần nữa, cha tôi lại vô cùng tuyệt vọng. Chính lúc đó, ông nhìn thấy cách ông khoảng 50 bước có 3 vị lạt ma trên người quấn khăn chiên màu đỏ đi về hướng chuồng ngựa. Ông kêu lên thảm thiết: “Mau đến cứu người!”

3 vị lạt ma cao to xông vào đàn chó, không ngừng quát tháo chúng và vung gậy sắt trong tay mở đường vào chuồng ngựa. Những con Ngao Tạng không chịu nhường đường, những con Ngao Tạng chuẩn bị cắn xé cha tôi, kể cả con Ngao đen Cô-rư và con Ngao đực xám già đang cắn xé Cang-rư-sân-cơ đều bị gậy trong tay 3 vị lạt ma đánh cho quay cuồng, không biết phải làm gì. Nhưng chúng quyết không lùi bước, vì chúng là Ngao Tạng. Tổ tiên chúng không để lại cho chúng sự di truyền rằng khi chiến đấu, nếu gặp trở ngại thì rút lui. Chúng sủa gay gắt 3 vị lạt ma. Chúng tức giận phẫn uất hỏi: “Các người muốn gì đây? Chẳng lẽ 1 người 1 chó từ bên ngoài đến xâm phạm mà không bị trừng phạt sao? Chúng tôi là chó lãnh địa kia mà. Bảo vệ lãnh địa là chức trách thiêng liêng mà người Chia-cu Tây giao cho chúng tôi, chẳng lẽ bây giờ lại thu chức trách đó về ư?” 3 vị lạt ma không thể trả lời những thắc mắc của chúng, chỉ có những con Ngao Tạng có đầu óc thông minh hơn mới trả lời được.

Suốt thời gian đó, Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao đứng yên lặng quan sát. Bỗng nó sủa lên mấy tiếng. Tiếng sủa trầm, vững, chậm chậm. Hết thẩy những con Ngao Tạng, kể cả những con chó Tạng lâu la đều nghe thấy và hiểu rõ hàm ý trong đó. Ngao Vương yêu cầu chúng phải tôn trọng ý chí của lạt ma gậy sắt. Một khi lạt ma gậy sắt đã ra tay bảo vệ thì chó ngoại lai và chủ của chó ngoại lai dám vào lãnh địa của chúng ta đã không còn là đối tượng phải cắn chết nữa. Trước hết, con Ngao đen Cô-rư và con Ngao đực xám già cụp đuôi cúi đầu lặng lẽ rời chuồng ngựa. Sau đó cả những con Ngao Tạng đang trong chuồng ngựa cũng lũ lượt đi ra. Con Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao đầu ngẩng cao, chân sải dài đi về hướng sông Dã-la. Những con Ngao Tạng hầu như xếp thành hàng theo sau nó. Những con chó Tạng lâu la chưa chịu buông tha vẫn sủa inh ỏi, nhưng cũng chỉ dám sủa thôi, sủa chán chê rồi cũng dần dần theo những con Ngao Tạng đi theo Ngao Vương.

Ba vị lạt ma gậy sắt nhìn theo lũ chó khuất dần. Lúc này trong chuồng ngựa chỉ còn lại cha tôi còn sống, con ngựa hồng tía đã chết và 2 con Ngao Tạng: con Cang-rư-sân-cơ đã lại ngất đi và con Ngao đen Na-rư bị mất nhiều máu nằm bẹp dưới đất.

Cha tôi thở dài đánh thượt, ngồi phệt xuống đất. Thằng bé ở trần không biết từ đâu chạy vào chuồng ngựa, nó kêu lên: “Na-rư, Na-rư.” Nó ôm lấy con Ngao đen Na-rư, lấy lưỡi liếm máu trên mắt trái cho nó, liếm máu đang rỉ trên bụng nó. Thằng bé tưởng rằng lưỡi của mình cũng như lưỡi của con Na-rư, có thể sát trùng, thậm chí còn thần kỳ hữu hiệu hơn lưỡi của các con Ngao Tạng, chỉ cần liếm 1 cái vết thương sẽ lành. Con Na-rư cố vẫy đuôi tỏ lòng cảm kích với chủ cũ của nó.

Vết thương của cha tôi rất trầm trọng. Vai, ngực, đùi đều bị con Na-rư cắn nát. Vết cắn sâu, máu chảy đầm đìa. Con Cang-rư-sân-cơ còn tồi tệ hơn, vết thương cũ lại thêm vết thương mới, không biết nó còn sống hay đã chết. Con Na-rư thở hồng hộc, không dậy nổi. Tuy mắt trái nó bị con ngựa hồng tía đá cho chảy máu, nhưng nó vẫn dùng mắt phải đầy căm thù hết nhìn cha tôi lại nhìn con Cang-rư-sân-cơ. Một vị lạt ma gậy sát to cao khoẻ mạnh cõng cha tôi, vị to khoẻ hơn cõng con Ngao đen Na-rư, vị to khoẻ nhất cõng con Cang-rư-sân-cơ. Họ theo nhau đi về chùa Chia-cu Tây ở núi vọng gác cao nhất.

Thằng bé ở trần đi sau cùng. Dù căm ghét con Cang-rư-sân-cơ hay vương vấn với con Na-rư, nó đều có lý do để đi theo 3 vị lạt ma gậy sắt đến chùa Chia-cu Tây. Gần đến chùa, nó dừng lại, nheo mắt nhìn đồng cỏ bên kia sông Dã-la. Bỗng nó kêu rú lên khiến 3 vị lạt ma giật mình quay lại. Trên nét mặt thằng bé lộ rõ vẻ căm thù từ trong tim một cách rõ rệt. Ngọn lửa căm thù phóng ra từ ánh mắt nó cháy rừng rực như những đống lửa đốt bằng phân bò khô.

Trên đồng cỏ đối diện với sông Dã-la xuất hiện 7 cái chấm đen nhỏ. Thằng bé cởi trần nhận ra ngay đó là 7 đứa trẻ Ama Thượng đã theo cha tôi đến đây. Nó vừa chạy xuống núi vừa hét to: “Kẻ thù Ama Thượng! Kẻ thù Ama Thượng!”

Tiếng chó sủa inh ỏi. Cha tôi được vị lạt ma gậy sắt cõng trên lưng. Ông tưởng tượng đàn chó bị kích động sẽ chạy theo thằng bé cởi trần. Nó như 1 vị tướng quân, đàn chó là những chiến sĩ dũng mãnh xông pha trận mạc. Cha tôi thở dài bất lực. Ông thật sự hối hận vì hành động của mình: Sao lại chia những củ lạc rang cho bọn trẻ? Trên thảo nguyên không trồng được lạc, vị bùi bùi, thơm thơm của những củ lạc rang từ cha sinh mẹ đẻ chúng chưa được thấy, chưa nói gì được ăn. Chúng theo chân cha tôi, theo vị thơm ngon quyến rũ của “quả thiên đường” đến Chia-cu Tây, kết quả là tai hoạ ập đến với chúng. 7 đứa trẻ chống chọi sao nổi với đàn chó đông như vậy? Cha tôi cầu khẩn vị lạt ma đang cõng mình: “Các vị là lạt ma trong chùa, chỉ làm việc thiện, các vị phải cứu bọn trẻ.” Vị lạt ma gậy sắt hỏi cha tôi bằng tiếng Hán: “Anh quen biết kẻ thù Ama Thượng? Chúng đến tìm anh?” Cha tôi trả lời: “Không quen. Bọn trẻ chắc chắn là đến tìm Cang-rư-sân-cơ. Con Ngao Tạng này là chó của chúng.” Vị lạt ma không nói gì, cõng cha tôi theo con đường dẫn vào chùa, 2 bên đường có tường cao quét vôi đỏ và trắng.

Thằng bé cởi trần dẫn bầy chó lãnh địa lội qua sông Dã-la đuổi theo 7 đứa trẻ.

7 đứa trẻ lại 1 lần nữa chạy thục mạng. Chúng dường như là những người giỏi chạy trốn. Chỉ cần sải 2 chân chạy là người Chia-cu Tây vĩnh viễn không đuổi kịp chúng. Chúng vừa chạy vừa kêu to: “Ma-ha-cơ-la-pân-sân-pao! Ma-ha-cơ-la-pân-sân-pao!” Hình như đó là câu thần chú, hễ bầy chó nghe thấy, chúng tự nhiên giảm tốc độ. Tiếng sủa cũng yếu dần, trở thành những tiếng kêu thúc giục của kẻ lắm mồm: “Chạy nhanh lên! Chạy nhanh lên!”
 

ohcuey

Member
Trên kháng của nhà tăng chùa Chia-cu Tây vang lên tiếng kêu thảm thiết xé ruột xé gan của cha tôi. Lần này không phải do những cái răng chó cắn vào da thịt mà là do thuốc mạnh. Tạng y Tô-y-thê của chùa Chia-cu Tây lấy từ trong túi da báo hình trống ra 1 ít bột thuốc trắng, đen và xanh lam rắc vào vết thương sâu hoắm trên vai, ngực và đùi cha tôi. Sau đó ông lại bôi một loại thuốc như hồ vào trên vết thương. Khi rắc bột thuốc vào, cha tôi đau suýt ngất, nhưng băng bó xong ông cảm thấy dễ chịu hẳn. Máu đã cầm, đau đớn cũng đang giảm. Lúc này cha tôi mới thấy mồ hôi vã ra như tắm. Ông thấy khát cháy cổ. “Có nước không? Cho tôi uống một chút.” Tạng y Tô-y-thê hiểu, quay lại nói với lạt ma gậy sắt biết tiếng Hán từ nãy vẫn đứng cạnh cha tôi bằng tiếng Tạng. Vị lạt ma gậy sắt đi ra ngoài, lúc quay lại trên tay bưng 1 bát thuốc thảo dược đen xì. Tạng y ra hiệu cho cha tôi uống thuốc. Cha tôi cầm lấy uống, thuốc đắng đến chảy cả nước mắt.

Bên cạnh một góc của xá tăng, con Cang-rư-sân-cơ hôn mê và con Na-rư cũng sắp hôn mê nằm đó. Tạng y lạt ma Tô-y-thê cởi băng con Cang-rư-sân-cơ mà hôm qua Mây-tô-la-mu vừa băng, cũng rắc các loại thuốc bột vào vết thương cũ và mới, lại dùng chất đen xì như hồ quết vào toàn thân nó, xong cuốn tai nó lên, ra sức bóp nắn mấy cái. Rồi lại quay sang chữa trị cho con Ngao đen Na-rư. Cha tôi nhớ đến lọ i-ốt Mây-tô-la-mu đưa cho hôm qua, bèn lấy ra đưa cho Tạng y. Ông đón lấy xem, ngửi ngửi rồi vứt lên kháng. Cha tôi lại nhặt lên, ngạc nhiên hỏi: “Thuốc này tốt lắm, sao ông không dùng?” Tang y Tô-y-thê giật lại lọ thuốc trong tay cha tôi, lại vứt vào góc tường, nói với lạt ma gậy sắt mấy tiếng Tạng. Lạt ma gậy sắt dịch lại bằng tiếng Hán: “Công thuốc! Bị công thuốc. Thuốc của các anh công với thuốc của chúng tôi.” Con Ngao đen Na-rư sắp hôn mê khi được rắc thuốc lên vết thương bỗng trợn trừng mắt, cả người nó run lên bần bật, giẫy giụa kêu la một cách đau khổ. Lạt ma gậy sắt ra sức ấn nó xuống. Rắc bôi thuốc xong, con Na-rư đã đau ngất lịm đi.

Tạng y Tô-y-thê bảo lạt ma gậy sắt cậy mồm con Na-rư ra đổ bát thuốc thảo dược cha tôi uống thừa vào. Sau ông tự tay bưng ra nửa chậu thuốc ấm đổ vào mồm con Cang-rư-sân-cơ. Ông lặng lẽ nhìn cha tôi và con Cang-rư-sân-cơ đang thở, thực sự thấy may mắn vì họ còn sống.

Ngoài cửa có tiếng chân người. Bạch chủ nhiệm, Mắt Kính, Mây-tô-la-mu cùng 1 vị tăng gương mặt thanh thoát, sắc mặt nghiêm túc đi vào. Tạng y Tô-y-thê và vị lạt ma gậy sắt thấy vị tăng đó vội kính cẩn cùi gập lưng chào. Bạch chủ nhiệm hỏi: “Vết thương thế nào? Anh làm chúng tôi sợ chết khiếp.” Cha tôi đáp có phần lạnh nhạt: “Chắc không chết nổi đâu. Dù sao vết thương lúc này cũng không đau nữa.” Bạch chủ nhiệm nói: “Phải cám ơn các Phật gia lạt ma chùa Chia-cu Tây đã cứu anh.” Bạch chủ nhiệm chỉ vào vị tăng có khuôn mặt thanh thoát nói: “Anh chưa gặp vị phật gia này? Đây là trụ trì chùa Chia-cu Tây, phật sống Tan-Trân.” Cha tôi chắp tay gượng dậy, lạy vị phật sống mấy lạy. Phật sống Tan-Trân bước lên 1 bước, chìa tay ra như phủi bụi, nhẹ nhàng xoa xoa đỉnh đầu cha tôi. Cha tôi biết theo phong tục, được phật sống xoa đỉnh đầu là lời chúc phúc của thảo nguyên. Ông cảm kích lại cúi gập người xuống, vái lạy 1 lần nữa.

Phật sống Tan-Trân đến trước con Cang-rư-sân-cơ, ngồi xổm xuống, khe khẽ vuốt lông nó đã bôi đầy thuốc. Tạng y Tô-y-thê lo lắng nói: “Chắc nó không sống nổi nữa. Linh hồn nó đang rời khỏi đây.” Phật sống Tan-Trân đứng dậy: “Sao chết được. Nó đã báo mộng rồi, trong mộng không nói nó phải chết. Nó thỉnh cầu chúng ta cứu nó một mạng, chúng ta sẽ cứu được nó. Nó là sư tử núi tuyết A-ni-ma-chinh đầu thai, đã từng bảo vệ tất cả những tăng nhân tu hành trên núi tuyết. Giờ nó đến đây bảo vệ chúng ta. Nó không chết đâu. Bị thương nặng như vậy, nếu chết thì đã chết rồi. Hãy chăm sóc tốt cho nó. Cứu chữa những người bệnh đau trên đời, người sẽ được 13 bậc công đức, cứu chữa bệnh tật đau đớn trong giới thần, người sẽ có 26 bậc công đức; còn cứu chữa hoá thân của hộ pháp núi tuyết từng bảo vệ rất nhiều sư sãi khổ tu trên núi, người sẽ được 39 bậc công đức. Còn nữa, người Hán, người đã đem đến hoá thân của sư tử núi tuyết cho thảo nguyên Chia-cu Tây chúng ta là con người may mắn. Các người phải đối xử tử tế với người Hán đó. Vết thương của người ấy cũng là vết thương của chính các người. Tạng y Tô-y-thê và vị lạt ma gậy sắt vâng dạ nghe lời.

Trước khi đến thảo nguyên Chinh-cô-ama, Mắt Kính được học một lớp tiếng Tạng. Anh ta nghe hiểu gần hết những gì phật sống Tan-Trân nói, vội phiên dịch cho Bạch chủ nhiệm và Mây-tô-la-mu nghe. Bạch chủ nhiệm rất phấn khởi. Ông chìa ngón tay cái trước mặt cha tôi khen: Tốt, tốt, thế thì tốt quá. Anh đã công hiến cho công việc của chúng tôi, giành được sự tín nhiệm của dân địa phương tải thảo nguyên Chia-cu Tây rồi. Nhất định tôi sẽ báo cáo lên cấp trên.” Ông lại quay sang Mắt Kính và cô Mây-tô-la-mu: “Trên người đồng chí phóng viên này rực sáng tinh thần xả thân không sợ chết. Các đồng chí phải học tập đồng chí ấy. Phật sống Tan-Trân nói anh là người may mắn. “May mắn” tiếng Tạng là cha-xi, cha-xi tơ-lơ, cha-xi tơ-lơ”.

Vị lạt ma gậy sắt nghiêm túc nói với cha tôi: “Anh là Hán Cha-xi, còn tôi là Tạng Cha-xi. 2 chúng ta đều là Cha-xi.” Hoá ra vị lạt ma đó cũng tên là Cha-xi. Phật sống Tan-Trân nói cha tôi là người may mắn cứ như đã ban tặng cái tên Cha-xi, bất kể cha tôi có đồng ý hay không. Từ đó trên thảo nguyên người ta đều gọi cha tôi là “Hán Cha-xi”.
 

ohcuey

Member
Mọi người hàn huyên một lúc rồi ra về. Mây-tô-la-mu nán lại khẽ hỏi: “Cho tôi xem họ bôi thuốc gì cho anh?” Cha tôi nói: “Vết thương tôi đã băng bó cẩn thận rồi, cô xem con chó ấy, nó bôi thuốc gì thì tôi cũng bôi thuốc đó.” Mây-tô-la-mu kinh ngạc kêu lên: “Trời! Làm sao thế được, anh đâu phải chó!” Cô đến trước con Cang-rư-sân-cơ xem xét vết thương cũng chẳng hiểu gì. Vừa quay đầu lại, cô thấy lọ thuốc i-ốt của mình vứt lăn lóc ở góc tường. Cô nhặt lên: “Tôi không đem theo nhiều thuốc, sao anh lại vứt đi?” Cha tôi bắt chước ngữ điệu y như vị lạt ma gậy sắt: “Công thuốc, công thuốc, thuốc của cô công với thuốc của vị lạt ma.”

Mây-tô-la-mu cho lọ thuốc vào túi thuốc: “Mong sao thuốc của họ có tác dụng, nhưng điều tôi lo lắng nhất bây giờ không phải vết thương của anh nhiễm trùng mà là bệnh chó dại.” Cha tôi hỏi: “Bệnh chó dại là thế nào?” Mây-tô-la-mu trợn tròn đôi mắt đẹp, nét mặt sợ hãi: “Anh sẽ biến thành người bệnh thần kinh, đi bằng 2 tay 2 chân như chó, thấy chó là sủa, thấy người là cắn. Không dám uống nước, cuối cùng bắp thịt teo lại, liệt cả người rồi chết.” Cha tôi nói: “Đáng sợ vậy sao? Thế thì tôi thành con chó dại rồi…” Nói xong ông trợn mắt nhe răng, hướng vào Mây-tô-la-mu sủa “gâu” một tiếng. Cô kêu lên quay đầu chạy mất.

Lúc này tăng xá đã trở lại yên tĩnh. Cha tôi duỗi thẳng người, muốn ngủ một chút. Vị lạt ma gậy sắt Cha xi bước vào, đặt lên bàn thấp cạnh kháng ấm một bát mì thanh khoa đã trộn sẵn và một bát trà sữa. Cha tôi lắc đầu tỏ vẻ không muốn ăn. Tạng Cha-xi nói: “Nhất định anh phải ăn. Mì thanh khoa đã được đức phật sống tụng kinh rồi, ăn vào vết thương sẽ sớm lên da non.” Nói xong ông đỡ cha tôi dậy, ngồi canh để cha tôi ăn hết bát mì và uống hết bát trà sữa.

Cứ như vậy cha tôi ở chùa Chia-cu Tây cùng 2 con Ngao Tạng bị thương. Chiều hôm đó, con Na-rư đã tỉnh lại. Vừa tỉnh nó đã dùng 1 mắt lành lặn gườm gườm nhìn Cang-rư-sân-cơ, nhe 2 cái răng nanh sắc nhọn uy hiếp. Thấy Cang-rư-sân-cơ không động đậy, nó lại hướng ánh mắt u ám và nhe cái răng sắc nhọn trắng ởn vào cha tôi.

Cha tôi nằm trên kháng, thấy con Na-rư đã tỉnh, bèn xuống kháng, tập tễnh đi về phía nó.

Con Ngao đen Na-rư cảnh giác muốn đứng dậy, nhưng vết thương ở mắt và bụng không cho phép nó làm vậy. Nó đành phải nhẫn nhịn cơn phẫn nộ cực độ, để mặc cha tôi đến gần. Nó cảm thấy việc cha tôi đến gần nó đã là 1 âm mưu rồi. Sao người đó không xông ngay vào mà con nhích từng bước? Nó cố gắng ngẩng đầu lên, dùng con mắt lành nhìn vào tay cha tôi xem có mang roi, gậy, dao hay là song, những dụng cụ nó quá quen thuộc mà con người dùng để khuất phục đối thủ. Con Na-rư thấy trong tay đối phương không có gì, lại càng nghi hoặc. “Sao người đó lại không mang cái gì nhỉ? Chẳng lẽ bàn tay hắn không cần sự trợ giúp của những dụng cụ đó cũng phóng ra được sức mạnh mà không ai ngờ tới sao?” Cha tôi đến gần con Ngao đen Na-rư, ngồi xổm xuống nhìn nó. Bỗng nhiên cha tôi nghĩ đến 1 vấn đề mà khi này con Na-rư đã nghĩ đến: “Mình đến ngay trước mặt nó, mình muốn làm gì nó nhỉ? Phải chăng mình không muốn nó tỉnh lại? Nhưng thực sự nó đã tỉnh lại, mình phải làm gì đây? Không nghi ngờ gì nữa, nó là con chó ác độc. Nó cắn mình thảm hại thế này đây. Nó là sự đe doạ lớn nhất với con Cang-rư-sân-cơ. Nơi nó phải đến tốt nhất là cõi chết.” Cha tôi nghĩ vậy, nhìn bàn tay mình. Bàn tay vẫn còn lành lặn. Tuy bàn tay này không có sức mạnh như sức bò, sức ngựa, sức chó, nhưng cũng dư sức bóp chết con Ngao đen Na-rư đang không còn chút sức kháng cự.
Ngao đen Na-rư dường như hiểu cha tôi đang nghĩ gì. Nó hướng vào tay cha tôi khẽ gừ một tiếng.
Cha tôi lắc lắc tay, siết chặt 2 nắm đấm như sắp ra tay, nhưng sức lực và dũng khí của ông bỗng tiêu tan hết. Nguyên nhân là cha tôi phát hiện mình không hề căm ghét nó một chút nào. Trời sinh ra cha tôi là người rất yêu động vật, đặc biệt là chó. Ông không thể báo thù một con chó như báo thù một con người. Cha tôi không siết chặt tay nữa, xoa tay vào nhau và ngồi phệt xuống đất.

Con Ngao đen Na-rư hiểu ngay sự thay đổi trong suy nghĩ cha tôi. Cái đầu to đang cố ngẩng lên lại cúi xuống một cách nặng nề, rơi phịch vào 2 chân trước đang duỗi thẳng. Nó thở hổn hển và mệt mỏi nằm nghiêng ra. Cha tôi nhìn nó, tự nhiên từ đáy lòng nảy sinh một chút tình cảm dịu dàng thương cảm. Ông không tự chủ được, đưa tay vuốt ve lớp lông xù mềm mại của con Na-rư.

Con Ngao đen Na-rư cố sức ngẩng đầu lên muốn đớp tay cha tôi. Không đớp được, nó bèn cắn áo. Cha tôi kệ nó, ông tập trung toàn bộ sự chú ý vào bàn tay mình. Ông vuốt nhẹ lông nó, rồi cù nhẹ vào cổ nó, cù đến mức nó ngưa ngứa và cảm thấy dễ chịu. Cái cảm giác dễ chịu từ cổ đó như dòng suối lan toả đến toàn thân nó, chảy đến tận trái tim nó. Cảm giác đó khi đã vào đến con tim thì biến thành một cảm giác khác, đó là thiện cảm. Ngao Tạng là loài động vật rất dễ nảy sinh tình cảm. Chúng có bản tính dã man hung hãn của hổ và sư tử, nhưng lại rất sớm được con người thuần hoá, trung thành hết lòng phục vụ con người. Nguyên nhân chính là chúng có hệ thống thần kinh tiếp nhận và biểu đạt tình cảm và loài hổ và sư tử không có. Tiềm ẩn mà cũng sôi động nhất trong gene của chúng là dễ nảy sinh thiện cảm với con người. Dần dần, không biết từ lúc nào, cái đầu to tướng của con Na-rư không cố động đậy, cũng không cắn áo cha tôi nữa. Nó cảm thấy dâng lên cái gì đó vừa ấm áp vừa buồn ngứa, dâng lên 1 sự an ủi và thăm hỏi đến từ loài người khi nó đang đau đớn. Bỗng nhiên nó ý thức được rằng, chí ít là lúc này, con người trước mặt nó không phải là 1 gã đầy âm mưu đáng ghét mà nó phải đề phòng. Người ấy không muốn hại nó, báo thù nó, lại muốn lấy lòng nó là khác. Nó không thích tay người ấy chạm vào nó, nhưng lại rất thích cử chỉ chạm vào đó biến thành sự thụ hưởng êm ái, dễ chịu. Cảm giác được nịnh bợ lấy lòng đến từ kẻ thù đã là một minh chứng hùng hồn rằng nó đã thắng người đó. Nó bèn gối đầu vào 2 chân trước, yên lặng hưởng thụ cái vuốt ve ấm áp dễ chịu kia. Con mắt lành lặn và con mắt bị thương chứa đựng một nội dung cực kỳ phức tạp: “khoang dung với ngươi không có nghĩa là nhất định ta phải tiếp nhận ngươi. Không cắn ngươi không nhất định là ta đã thích ngươi. Ta là chó lãnh địa thảo nguyên Chia-cu Tây, ta chỉ trung thành duy nhất với mảnh đất và con người Chia-cu Tây. Nhưng ngươi? Ngươi là người gì?”

Vị lạt ma già Tuân-ca bước vào, con Na-rư vẫy đuôi với lạt ma. Thấy con Ngao đen Na-rư đã tỉnh và chịu nằm yên dưới những cái vuốt ve của cha tôi, Tuân-ca mừng đến nỗi cúi gập người chào cha tôi. Ông quay ra lấy ít tim phổi bò vụn đưa cho cha tôi làm động tác ăn. Cha tôi lấy một miếng đưa vào mồm. Tuân-ca lắc đầu chỉ con Na-rư. Cha tôi hiểu ra đây là thức ăn cho chó, ông bèn lấy từng miếng đút cho con Na-rư. Con Na-rư ăn hơi vất vả, nhưng vẫn ăn với vẻ thèm thuồng ngấu nghiến. Vị lạt ma già Tuân-ca ra khỏi phòng. Ông là người chuyên rắc thức ăn cho bầy chó lãnh địa Chia-cu Tây, ông yêu quý bảo vệ đàn chó như chính những đứa con của mình. Tuân-ca vui mừng rời khỏi Na-rư và cha tôi, đem suy nghĩ của mình kể hết cho mọi người trong chùa biết: “Khách ở nhờ nhà chùa có cái tên Hán Cha-xi ấy là người rộng lượng có trái tim lương thiện, là người rất thích Ngao Tạng và không hại con chó kẻ thù của mình. Con người như vậy đã dẫn hoá thân của Sư tử núi tuyết đến thảo nguyên miền Tây Chinh-cô-ama chúng ta, những việc tốt đẹp ắt sẽ xảy ra. Hơn nữa Hán Cha-xi lại muốn ăn phổi bò khô. Những người thảo nguyên không bao giờ ăn phổi bò, đó là thức ăn giành cho chó. Hán Cha-xi muốn ăn phổi bò chứng tỏ kiếp trước cũng là con chó, hẳn là 1 con chó to và tuyệt vời, 1 con Ngao Tạng có linh tính hùng vĩ như con sư tử. Những con Ngao Tạng ăn phổi bò sẽ có những bộ xương vững chắc, có thân hình cao lớn và 1 trái tim tuyệt đối trung thành với chủ. Trái tim đó là trái tim bằng vàng, chỉ có những con Ngao Tạng chân chính mới có. Giờ đây Hán Cha-xi đang ngồi cạnh con Ngao đen Na-rư, anh ta muốn trở thành chủ của con Ngao đen Na-rư. 1 người yêu thích chó lãnh địa, một người dù bị chó cắn cũng không thay đổi tấm lòng yêu quý chó tất nhiên là 1 người có tâm đức.” Một truyền mười, m ười truyền trăm, cả chùa Chia-cu Tây dạt dào không khí vui mừng phấn khởi.

Vị lạt ma gậy sắt Tạng Cha-xi sau khi nghe câu chuyện nói: “Những gì dân Tạng thích thì Hán Cha-xi cũng thích, chứng tỏ anh ta cùng chung 1 lòng với dân Tạng.” Nói xong, ông xuống núi đến các nhà bạt khất thực.

Tối đến, Tạng Cha-xi đem đến cho cha tôi những miếng thịt ông khất được. “Đây là thịt vai con bò lông Tạng. Đây là thịt ức con cừu. Còn đây là thịt chân sau con dê núi. Ăn đi, sao anh không ăn? Anh phải biết trên thảo nguyên chúng ta ăn gì bổ nấy. Vết thương của anh ở vai, ngực và đùi, ngày nào cũng phải ăn những thứ đó, ăn liền 7 ngày, bắp thịt non của anh sẽ chắc hơn, khoẻ hơn bắp thịt cũ.” Cha tôi vô cùng cảm động. Ông đã ý thức được rằng ai tốt với chó thì các lạt ma cũng sẽ tốt với người ấy. Ông vội hỏi: “Nếu ăn gì bổ nấy thì con Ngao đen Na-rư phải ăn mắt và bụng của con bò chứ. Còn con Cang-rư-sân-cơ đầy mình thương tích chắc phải ăn cả một con bò hoặc con dê.” Tạng Cha-xi gật đầu lia lịa. “Đúng vậy, đúng vậy! Hán Cha-xi nói đúng. Nhưng Ngao Tạng có 7 mang, còn người thì chỉ có 1 mạng thôi. Ngao Tạng sống lâu hơn người. Ngao Tạng không ăn mắt bò cũng sẽ có được mắt sáng, không ăn cả con bò cũng khoẻ trở lại.”

Cha tôi chỉ ăn 1 nửa thịt vai của con bò lông dài, thịt ức con cừu và thịt đùi dê núi, 1 nửa kia dành cho con Na-rư. Trong ánh mắt con Ngao đen vẫn đầy nghi hoặc: “Rốt cuộc ngươi muốn gì ở ta? Ta đã cắn ngươi, sao ngươi con cho ta thịt ăn? Ngươi không phải người của thảo nguyên Chia-cu Tây, sao ngươi lại tốt với ta như vậy?” Nó biết đây là thức ăn giành cho người do vị lạt ma đen đến cho cha tôi, nhưng cha tôi đã để một nửa cho nó. Trong lòng nó trỗi dậy 1 cảm giác vinh dự được con người tôn trọng và trọng thị, một niềm tự hào dâng lên vì nó cũng được hưởng thụ như con người. Nó chầm chậm nhấp nháp thức ăn chín mà nó rất hiếm khi được ăn. Nó thấy vị mằn mặn, mềm mềm, bùi bùi, cảm giác rất thích thú dễ chịu, hệt như cảm giác khi cha tôi gãi cổ nó. Nó nhớ đến cái đuôi của mình. Nó vận khí đến gốc đuôi, nhưng vẫn chưa vẫy lên được. Cái đuôi không vẫy cho cha tôi một tín hiệu là nó vẫn còn nghi ngại rất nhiều: Ngươi là ai? Ngươi đem 1 con Ngao đực đến thảo nguyên Chia-cu Tây chúng ta làm gì?
 

ohcuey

Member
Suốt 5 ngày, ngày nào cha tôi và con Ngao đen Na-rư cũng chia nhau ăn bột Thanh Khoa đã được phật sống Tan-Trân đọc kinh và thịt do Tạng Cha-xi khất thực đem về, vẫn là thịt vai bò lông dài, thịt ức con cừu và thịt đùi dê núi. Có lần cha tôi và Na-rư còn được ăn thịt nhà chùa đặc biệt “thừng giết mổ” (dùng dây thừng cuốn vào mũi con vật khiến nó ngạt thở chết). Cha tôi được ăn thịt vai, thịt ức và thịt đùi tươi, mùi vị thơm ngon suốt đời không quên. Ăn uống tẩm bổ và mỗi ngày thay thuốc 1 lần khiến cha tôi và con Na-rư nhanh chóng bình phục. Ông có thể đi lại khắp nơi trong chùa. Con Ngao đen Na-rư cũng đứng lên lê được mấy bước.

Sau khi đã đi lại được, cha tôi thường ra khỏi tệ xá của nhà chùa, vòng qua bên phải bức tường đá khắc kinh Ma-ni, đến chiêm ngưỡng đại kinh đường, điện Mật Tông, điện thần hộ pháp, điện phật Song thân Ya-pu-you-mu và các điện, đường khác trong tăng viện 1 cách hiếu kỳ. Các vị lạt ma gặp cha tôi đều nở nụ cười thân thiện. Cha tôi cũng chắp tay cúi gập người đáp lại. Nếu gặp nhau trên lối hẹp, các vị lạt ma đều né sang bên nhường cha tôi đi trước. Cha tôi là người khôn ngoan, càng nhường cha tôi đi trước ông càng nhường lại, không ai trách được người biết lễ phép. Các vị lạt ma đều thấy cha tôi là người tốt. Quan trọng hơn, cha tôi hễ thấy tượng phật là lạy. Ông lạy đại phật Như Lai, Liên hoa sinh và đại hoang thần Ne-yê-chia của phái Mật Tông. Ông lạy tam thế phật và bát đại bồ tát của phái hiển giáo. Ông lạy tổ sư Xing-rao-mi-ô-chi, thần chiến Uây-ơ-ma và nữ thần thập nhị Tan-ma của giáo phái Bản. Những người Hán thường không thấy họ lễ bái. Nhân viên uỷ ban công tác Chia-cu Tây cũng không bao giờ lễ phật. Các vị lạt ma cảm thấy cha tôi không giống những người Hán khác. Cha tôi rất thân thiện và dễ gần. Phàm những người có thái độ thành kính trước chư phật đều thân thiện và dễ gần.

Một hôm, vào buổi sáng, cha tôi đang ngồi trên bậc trước thần điện hộ pháp học 6 chữ châm ngôn với lạt ma gậy sắt Tạng Cha-xi. Vừa đọc đúng âm “hông” trong 6 chữ An-ma-ni-pát-mi-hông thì bỗng nghe tiếng chó sủa trầm trầm. Tuy trong chùa cũng nuôi rất nhiều chó, nhưng cha tôi vẫn nhận ra ngay tiếng của con Ngao đen Na-rư. Ông giật thót mình quay người chạy. Nói là chạy, thực ra là đi tập tễnh. Trong lòng cha tôi muốn chạy thật nhanh. Ông tập tễnh vòng qua tường đá khắc kinh Ma-ni, chạy thẳng vào tệ xá. Những gì diễn ra trước mắt đã chứng minh tiên đoán của cha tôi quả không sai: con Cang-rư-sân-cơ đã tỉnh lại. Nó mê man bất tỉnh 5 ngày bỗng nhiên hôm nay tỉnh lại.

Tiếng sủa của con Na-rư là nhằm vào con Cang-rư-sân-cơ vừa tỉnh: “Chẳng phải mày đã chết rồi sao? Sao lại sống lại?” Nó đứng cạnh con Cang-rư-sân-cơ vừa mở mắt sủa 1 cách đầy phẫn nộ. Nhưng cũng chỉ sủa chứ không dùng những chiếc răng sắc như dao đối phó với Cang-rư-sân-cơ không còn chút sức lực chống cự. Chẳng gì thì chúng đều là Ngao Tạng cùng chung 1 tổ tiên, lại cùng nằm bên nhau từng ấy ngày. Điều quan trọng hơn nữa là: con Na-rư ý thức được rằng con Ngao Tạng không biết đầu óc mụ mẫm thế nào dám đến xâm phạm lãnh địa của mình, đã bị mình căm thù cắn xé kia là 1 con Ngao đực trẻ đẹp, còn nó, Ngao đen Na-rư, lại là 1 con Ngao cái, 1 con Ngao cái sư đầu đang tuổi dậy thì tràn sức trẻ.

Lúc này Tạng Cha-xi cũng theo vào, thấy Cang-rư-sân-cơ mắt chớp chớp thì kêu lên 1 tiếng đầy kinh ngạc, quay người đi ra ngay. Tạng Cha-xi mời phật sống Tan-Trân trụ trì chùa Chia-cu Tây, gọi Tạng y Tô-y-thê và vị lạt ma già Tuân-ca đến. Tạng y Tô-y-thê cúi gập người thưa với phật sống Tan-Trân: “Ngài phật gia thần thánh, ngài nói đúng rồi. Nó là sư tử núi tuyết A-ni-ma-chinh đầu thai. Thần núi vĩ đại phù hộ nó. Nó không chết nổi đâu.” Phật sống Tan-trân nói: “Người đã cứu chữa cho hoá thân của sư tử núi tuyết, công đức 39 bậc của người đã in trên dấu tay của phật bồ tát. Ta chúc phúc cho người, Tô-y-thê.” Tô-y-thê nói: “Không, không phải công đức của tôi mà là công đức của chùa Chia-cu Tây. Chùa Chia-cu Tây tràn đầy ánh sáng của chúng ta mới cần chúc phúc.”

Tạng y Tô-y-thê cúi xuống, cẩn thận xem xét vết thương và mắt của Cang-rư-sân-cơ rồi bỗng đứng dậy: “Máu của nó đã chảy hết rồi, bây giờ nó cần bổ sung máu tốt nhất, nếu không nó sẽ lại ngất đi.” Tạng Cha-xi hỏi: “Thế nào là máu tốt nhất? Tôi sẽ đi tìm ngay.” Tô-y-thê nói: “Máu tốt nhất không phải là máu bò, cũng không phải máu dê, mà là máu Ngao Tạng hoặc máu người. Thôi, không phải đi đâu tìm nữa, thầy hãy mang cái chậu gỗ sạch ra đây.”

Cha tôi không ngờ Tạng y Tô-y-thê lại lấy máu của mình để cứu mạng một con chó. Ông lấy từ trong túi thuốc bằng da báo ra 1 cái lọ quý màu vàng to bằng ngón tay cái, nhỏ 1 giọt vào cổ tay mình. Sau khi sát trùng, ông lấy 1 con dao mổ hình dáng như con chim sẻ cắt tĩnh mạch trên cổ tay. Máu chảy ào ào vào cái chậu gỗ.

Máu chảy được khoảng nửa bát, phật sống Tan-trân ấn chặt cổ tay Tô-y-thê ngăn lại rồi chìa cánh tay mình ra. Tạng y Tô-y-thê nói: “Thưa phật gia, máu của ngài là máu thánh, máu của ngài dù chỉ 1 giọt đối với sư tử núi tuyết cũng có tác dụng cải tử hoàn sinh.” Nói xong lấy thuốc nước trong lọ vàng sát trùng cho phật sống Tan-trân rồi dùng dao khẽ cắt 1 nhát. Máu chảy ào ra, tươi đến nỗi chiếu đỏ cả tệ xá.

Tiếp đó là máu của Tạng Cha-xi, rồi máu của vị lạt gia già Tuân-ca.

Cuối cùng cha tôi cũng xắn tay áo lên, giơ ra trước mặt Tạng y Tô-y-thê. Tô-y-thê lắc đầu nguầy nguậy: “Không được, không được, anh cũng bị thương và chảy máu. Anh cũng cần đến máu.” Tạng Cha-xi phiên dịch lại cho cha tôi nghe: “Vị lạt ma vua thuốc nói rằng Hán Chi-xi thì thôi. Sư tử núi tuyết dùng con mắt sáng như sao bảo chúng ta rằng nó không cần máu của Hán Cha-xi.” Cha tôi hỏi: “Tại sao? Chẳng lẽ máu của người Hán lại khác máu của người Tạng ư?” Tạng Cha-xi dịch lại lời nói của cha tôi cho mọi người nghe. Phật sống Tan-trân nói: “Người và người chỉ cần trái tim như nhau thì máu cũng như nhau. Khác nhau chỉ có máu của người tà ác và máu của người lương thiện thôi.” Rồi ông nói với Tô-y-thê: “Người cứ cho lòng tốt của Hán Cha-xi được toại nguyện đi. Lấy ít máu thôi. Ân nghĩa của 1 giọt máu cũng như ân nghĩa của 1 bát máu.”

Máu của cha tôi chảy vào chậu gỗ. Máu của 4 vị sư dân tộc Tạng và máu của 1 người Hán trần tục hoà vào nhau trong 1 chậu gỗ sắp chảy vào họng đang đói khát của Cang-rư-sân-cơ. Con Ngao Tạng sư đầu Cang-rư-sân-cơ hiểu rõ tại sao phải cho nó uống máu, cũng biết sự quan trọng của máu và biết máu đó đó từ đâu ra. Nó muốn vẫy đuôi tỏ lòng cảm kích nhưng không đủ sức. Nó chỉ biết mở to mắt với tình cảm sâu đậm nhìn mọi người. Nó khóc, nước mắt của nó chảy ra. Con Cang-rư-sân-cơ đã chắt hết chất lỏng còn lại trong cơ thể thành những giọt nước mắt ròng ròng. Nước mắt của nó khiến những người có mặt đều cảm động không cầm lòng nổi. Mắt cha tôi cũng đỏ hoe ươn ướt.

Con Ngao đen Na-rư đứng bên cạnh nhìn từ đầu đến cuối. Nó thấy nước mắt của Cang-rư-sân-cơ, lại thấy nước mắt của cha tôi. Nó không sủa, yên lặng nằm xuống. Có một sức mạnh nào đó đang khiến nó cảm động vô cùng, khiến cái đuôi của nó bỗng có 1 cử chỉ bồng bột trái với ý muốn của nó: cái đuôi vểnh lên chầm chậm vẫy, vẫy đi vẫy lại. Dường như cái đuôi muốn thay nó tỏ lòng cảm kích của cả thế giới Ngao Tạng. Nó quay đầu lại nhìn cái đuôi. Ngay nó cũng thấy lạ: “Đuôi của mình sao lại thế nhỉ? Những nguyên tắc của chó lãnh địa đâu rồi? Những tiếng gào thét uy hiếp thiên liêng đối với kẻ xâm phạm đâu rồi? Sao chỉ chớp mắt đã bị chính cái đuôi của mình quét sạch như thế?” Con Ngao đen Na-rư bỗng tiu ngỉu, vì nó hiểu rõ hơn hết cái đuôi chính là công cụ biểu đạt tình cảm. Đuôi của Ngao Tạng chính là thể hiện nội tâm của Ngao Tạng. Nó đã thay lòng đổi dạ rồi. Trái tim nó không còn là trái tim của kẻ sát thủ cứng như sắt, trái tim hận thù sắt nhọn như dùi nữa.

Đổ hết chỗ máu vào mồm con Cang-rư-sân-cơ xong, Tạng y thay băng bôi thuốc cho nó. Cang-rư-sân-cơ cắn răng chịu đau đớn để Tạng y rắc những thuốc bột khác nhau vào vết thương. Sau 2 giờ đồng hồ được cha tôi trợ giúp, nó đã uống hết 1 chậu thuốc thang Tạng Bảo. Đó là thứ thuốc thang lấy từ nước thánh núi tuyết, thêm vào suối nước nóng và thảo dược Tạng hồng hoa mọc trên núi sâu, đem những thứ đó hầm cùng với xương bò. Con Na-rư được ăn canh hầm xương bò, còn được ăn thêm mắt bò và lườn bò do Tạng Cha-xi khất thực về.
 

ohcuey

Member
Mây-tô-la-mu và Mắt Kính đến thăm cha tôi. Mấy ngày nay 2 người thay mặt Bạch chủ nhiệm ngày nào cũng đến. Cha tôi đã biết Mây-tô-la-mu tên Hán là Trương Đông Mai. Tiếng Tạng Mây-tô nghĩa là hoa tươi. Chủ nhà cô ở, già Ni-ma tự đổi tên cô thanh Mây-tô-la-mu, nghĩa là nàng tiên đẹp như bông hoa. Mắt Kinh biết được nói: “Mây-tô-la-mu là cái tên có ý nghĩ thật hay, so với Trương đông Mai hay hơn nhiều. Hoa mai mùa đông vừa cô đơn, vừa lạnh lẽo, đáng thương làm sao.” Mây-tô-la-mu cãi lại: “Đông Mai là hoa mai không sợ giá lạnh mùa đông, ngạo sương đấu tuyết. Tôi rất thích cái tên đó. Nhưng người thảo nguyên muốn gọi tôi là Mây-tô-la-mu cũng không thể không cho họ gọi. Có 2 tên cũng hay chứ sao?” Mắt Kinh nói: “Đây cũng là chan hoà với dân Tạng địa phương mà. Tôi cũng tự đặt cho mình 1 cái tên mới, Tạng – Hán kết hợp, là Lý Ni-ma.” Mây-tô-la-mu nói: “Tôi biết, Ni-ma nghĩa là mặt trời. Chủ nhà tôi ở cũng tên Ni-ma.” Lý Ni-ma nói: “Chính xác, cái tên Ni-ma rất hay. Ni-ma là mặt trời mãi mãi không bao giờ lặn.” Cha tôi còn biết Lý Ni-ma và Mây-tô-la-mu có tình cảm với nhau, tình cảm nam nữ, như 2 miếng nam châm hút lấy nhau. Trong uỷ ban công tác Chia-cu Tây, trong số con gái Mây-tô-la-mu xinh đẹp nhất. Trong số con trai Lý Ni-ma vừa đẹp trai vừa có văn hoá. Đúng là trai tài gái sắc, 1 đôi uyên ương trời đất tác thành.

Vừa bước vào nơi cha tôi đang nằm chưa trị vết thương, Mây-tô-la-mu kinh ngạc kêu lên: “Ôi, nó sống rồi! Sống thật rồi! Tôi còn tưởng chẳng hôm nay thì ngày mai anh phải cõng nó lên núi cho chim ưng rỉa rồi.” Lý Ni-ma nói: “Xem chừng cô phải học một ít Tạng y đi. Y thuật của Tạng y thật là thần kỳ.” Cha tôi ngồi dưới đất, 1 tay vuốt ve con Ngao đen Na-rư, 1 tay vuốt con Cang-rư-sân-cơ và nói: “Tôi nghe các vị lạt ma nói kiếp trước nó là con thần sư núi tuyết A-ni-ma-chinh, từng bảo vệ rất nhiều vị sư tu trên núi. Nó không chết, vĩnh viễn không chết, chư Phật phù hộ cho nó.” Khi cha tôi nói, trông ông thật ngây thơ như 1 đứa trẻ. Mây-tô-la-mu càng ngây thơ hơn, nói: “Hoá ra là thế!” Lý Ni-ma nói: “Tôi thấy đấy là mê tín.” 2 người ngồi xổm cạnh cha tôi nói chuyện, lúc thì vuốt ve Na-rư, lúc thì xoa xoa Cang-rư-sân-cơ. 2 con Ngao Tạng to tướng nằm yên. Chúng biết cô gái xinh đẹp và người đàn ông trẻ 4 mắt này là bạn tốt của cha tôi. Còn cha tôi trong mắt chúng đã là người thân, thân lắm rồi.

Nói chuyện được một lúc, Lý Ni-ma và Mây-tô-la-mu đưa mắt cho nhau rồi đứng lên. Cha tôi tiễn họ ra cửa và nói: “Mau về đi. 2 người còn có việc của mình. Tôi khoẻ rồi, không cần ngày nào cũng đến đâu.”

Kỳ thực Lý Ni-ma và Mây-tô-la-mu chưa muốn về ngay mà còn muốn đến đồng cỏ. Mỗi lần đến chùa Chia-cu Tây thăm cha tôi, lúc về họ đều vòng ra phía bên kia nhà vọng gác đến bãi cỏ. Xa xa là núi tuyết cao chót vót, thảo nguyên bao la, những dòng sông trong vắt, xung quanh thật tĩnh lặng im ắng. Trên thảo nguyên xanh biếc mênh mông kia chỉ có 2 người. Lúc đầu 2 người còn nói chuyện với nhau, rồi chẳng ai nói gì. Chàng kéo nàng lại gần, nắm lấy tay nàng, hôn lên mặt nàng. Rồi chàng ôm ghì nàng, muốn cùng nằm xuống bãi cỏ. Nàng bỗng run rẩy đấy mạnh chàng ra. Mặt nàng đỏ như gấc: “Đừng làm thế. Chúng ta còn sớm…” Lý Ni-ma nuối tiếc nói: “Đây thật là yên tĩnh, chẳng ai thấy chúng mình…”

Dù Mây-tô-la-mu theo bản năng đẩy Mắt Kính ra nhưng 2 người đều không thể phủ nhận, hằng ngày cùng đi chùa Chia-cu tây thăm cha tôi, quan hệ giữa 2 người nhanh chóng trở nên mật thiết và ấm áp. Phải chăng đây là mối tình đầu? Những con chim ưng, nhưng con linh dương và la rừng Tây Tạng, con xạ ngựa và hươu môi trắng đã chứng kiến mối tình đầu của 2 người. Những con thú dễ thương kia không sợ hãi đứng nhìn. Chúng không những không chạy trốn mà còn đến gần 1 cách hiếu kỳ, hệt như những đứa trẻ ngây thơ nhìn người lớn vậy. Lý Ni-ma thốt lên: “Ôi thật đẹp diệu kỳ làm sao. Y như trong truyện cổ tích.”

Thêu dệt nên bức trach truyện cổ tích này còn có sự góp mặt của 7-8 con chó lãnh địa, trong đó có cả những con Ngao Tạng, nói chính xác hơn có Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao và Ngao đen Cô-rư. Vốn có quan hệ đặc biệt thân thiết với Ngao Vương, Ngao đực xám già và mấy con Ngao Tạng khác cũng theo chân 2 người với khoảng cách không xa không gần. Lý Ni-ma nói: “Đáng ghét, chúng theo ta làm gì?” Mây-tô-la-mu nói: “Chúng lấy mũi ngửi là biết ngay anh không phải người tốt. Chúng đi theo đề phòng anh ức hiếp em.” Lý Ni-ma nói: “Anh cứ ức hiếp đấy, làm gì được nào? Làm gì nào?” Vừa nói vừa ôm siết lấy Mây-tô-la-mu. Bầy Ngao Tạng quay về phía khác. Hình như chúng cũng thấy ngượng khi nhìn thấy cái kiểu “ức hiếp” của con người. Mây-tô-la-mu nói: “Bỏ em ra, bỏ em ra! Anh đừng làm vậy. Ngay những con chó còn biết xấu hổ kìa.”

Sự suy đoán của người đối với động vật không bằng của động vật suy đoán về con người. Đặc biệt những người không trưởng thành tại mảnh đất thảo nguyên khi gặp Ngao Tạng đều không hiểu được ý chúng. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao dẫn theo những người bạn thân của nó theo dõi 2 người vì dự cảm của chúng về một mối hiểm nguy sắp ập đến còn nhạy hơn cả ra-đa. Ra-đa chỉ có thể cảm ứng vào lúc đó, nhưng dự cảm của chúng còn vượt cả thời gian và không gian, dự đoán trước được những gì sắp xảy ra. Khi đôi nam nữ lần đầu xuất hiện ở đồng cỏ trống vắng này, bầy Ngao Tạng, đặc biệt là Ngao Vương lần đầu trông thấy họ tay trong tay, môi kề môi, chúng đã biết chính xác mối hiểm nguy lúc nào cũng có thể chụp xuống đầu họ. Tuy nhiên chúng không nói rõ được bao giờ nó chụp xuống. Vì vậy chúng cứ phải đứng xa theo dõi giám sát cái thứ mà chúng sắp nhìn thấy đây. Cái mùi chúng đánh hơi được thì loài người vĩnh viễn không nhìn thấy và cũng không sờ thấy được.
Đúng vậy, chúng theo dõi mối nguy hiểm chứ không phải theo dõi 2 người, vì chúng là Ngao Tạng. Chó lãnh địa không cần thiết phải nịnh bợ bất kỳ ai, nhưng nhất thiết chúng phải thực thi chức trách giải nguy cho bất kỳ ai, chỉ cần họ đang sinh sống trên thảo nguyên Chia-cu Tây này, không kể giàu nghèo, người Tạng hay người Hán. Thấy họ lâm nguy mà không giải nguy cho họ được là sự sỉ nhục với Ngao Tạng, mà Ngao Tạng thì không thể sống trong sự sỉ nhục. Cái mà chúng nhạy cảm và cần nhất là sự trung thành và hi sinh, là danh dự để đảm bảo chúng ở vị trí cao hơn hết trong tất cả các loài động vật, là sự dũng cảm bảo vệ tính mạng và tài sản cho con người.

Chúng đã theo dõi 2 người mấy ngày nay rồi. Bỗng Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao dẫn lũ bạn đến gần Lý Ni-ma và Mây-tô-la-mu vì linh cảm thấy mối hiểm nguy đang đến gần. Còn 2 người đang bị hiểm nguy rinh rập kia lại muốn cố rời khỏi sự theo dõi của chúng. Lý Ni-ma càu nhàu: “Thật đáng ghét. Bọn chúng rất khác những loài động vật hoang dã khác. Thấy chúng anh cảm thấy như thấy người quen.” Mây-tô-la-mu nói: “Thế thì có gì không tốt? Để anh thật thà một chút.” Lý Ni-ma nói: “Đi, ta rời khỏi đây, để chúng không tìm thấy.” Rồi kéo tay Mây-tô-la-mu chạy thục mạng, chạy đến nơi không còn bóng bầy Ngao Tạng. Nhưng Lý Ni-ma không ngờ tình yêu của mình lại có sự chứng kiến của người quen thật sự. Một đứa trẻ ở trần lúc này còn đáng ghét hơn bầy Ngao Tạng mà cả 2 đều quen biết bỗng nhiên lại xuất hiện.

Lý Ni-ma nắm lấy tay Mây-tô-la-mu rồi ôm hôn nàng. Đúng lúc đang định thử vật nàng xuống thảm cỏ thì nghe thấy tiếng rú của 1 đứa nhảy ra từ bụi rậm. 2 người giật mình vội tách nhau ra. Mây-tô-la-mu ngạc nhiên hỏi: “Sao cháu lại ở đây?” Đứa trẻ ở trần trên trán sưng tướng 1 cục to, nhìn 2 người với ánh mắt là lạ, chân đi đất đá một đống cỏ trước mặt. Mây-tô-la-mu đến gần thằng bé theo bản năng người thầy thuốc quan tâm: “Cháu sao thế? Đau không? Mau theo cô về băng bó lại cho.” Mỗi lần đi thăm cha tôi, Mây-tô-la-mu không đem theo hòm thuốc. Cô là 1 bác sĩ, nhưng chứng kiến y thuật thần kỳ của Tạng y lạt ma, cô cảm thấy mình thực sự kém cỏi, nên cũng không muốn khoác cái túi thuốc đi qua đi lại làm gì.

Thằng bé ở trần đứng yên không nhúc nhích. Mây-tô-la-mu kéo tay nó hỏi: “Thế này là thế nào? Ai đánh cháu? Hay cháu vấp ngã?” Thằng bé đoán ra cô đang hỏi gì, nó nói bằng tiếng Tạng: “Kẻ thù Ama Thượng, kẻ thù Ama Thượng.” Mây-tô-la-mu không hiểu gì. Lý Ni-ma đến gần nói: “Nó nói cục u ở trên trán là do kẻ thù Ama Thượng để lại đấy.” Mây-tô-la-mu hỏi lại: “Kẻ thù Ama thượng? Chẳng phải là 7 đứa trẻ Hán Cha-xi đưa đến sao? Chúng đánh cháu thế nào?” Thằng bé ở trần chớp mắt to nhìn vào đôi mắt đẹp của Mây-tô-la-mu. Nó lấy từ trong lưng ra 1 cái U-tô kết bằng lông bò dài 2m, rồi nhặt 1 hòn đá cuội, bọc vào trong U-tô, dùng ngón tay cái giữ 1 đầu sợi dây, những ngón kia giữ đầu dây nhọn, sau đó vung cánh tay quay tít, đột nhiên thả lỏng đầu dây nhọn. Chỉ nghe uỳnh 1 cái, hòn đá cuội đã bay xa chừng 100m rồi rơi phịch xuống đất. Mây-tô-la-mu ngạc nhiên hỏi: “Chúng dùng cái này đánh cháu à? Cháu phải cẩn thận. Đá bay ra có thể rơi trúng làm chết người đấy. Sau này cháu đừng chơi 1 mình trên thảo nguyên, gọi thêm mấy người bạn cùng đi.” Đứa trẻ ở trần hình như có 1 khả năng phi thường để hiểu những lời của Mây-tô-la-mu. Nó chớp chớp đôi mắt to, gật đầu quay lưng chạy đi, đến nơi thảo nguyên cách xa 2 người hơn.

Con Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao cũng ý thức được đôi nam nữ này không thích bọn chúng lởn vởn xung quanh nên biết điều dẫn bầy đàn của mình nghỉ tại 1 nơi chỉ cách họ 50 bước. Ẩn mình không có nghĩa là từ bỏ sự theo dõi. Có thể gọi đây là mai phục, mai phục trên đường nguy hiểm ập đến. Và lúc này, mối hiểm nguy đeo đẳng đôi nam nữ này đã đến rất gần, rất gần rồi, chỉ còn mấy tích tắc nữa thôi.
 

ohcuey

Member
Mối hiểm nguy đó đến từ báo kim tiền, 2 cái 1 đực. Kiểu ghép bầy như vậy chứng tỏ chúng tuyệt đối không phải vì kiếm mồi mà chủ ý tấn công con người. Rất có thể báo con của 2 con báo cái bị thợ săn bắt hoặc giết chết. Chúng cho rằng hễ những con vật đi bằng 2 chân đều là những kẻ giết hại báo con. Chúng là báo kim tiền, bản chất hung ác, không bao giờ ngừng phục thù, những cuộc phục thù hung tàn. Đó là sự lựa chọn duy nhất của chúng. Để phục thù, chúng có thể nhịn ăn mấy ngày đêm, kiên nhẫn giám sát mục tiêu. Chúng chịu đói vì chỉ có khi đói cồn cào mới làm chúng trở nên điên cuồng hơn, hung tàn hơn gấp trăm lần. Nếu không có sự điên cuồng, không có sự hung tàn gấp trăm lần đó thì khi đối phó với con người chúng sẽ do dự, vì tổ tiên chúng không để lại cho con cháu lòng căm thù với con người.

3 con báo kim tiền 1 đực 2 cái nhanh như chớp, gần như cùng 1 lúc nhảy lên vồ 2 người mà không hề gây ra tiếng động. Nếu kế hoạch của chúng được thực hiện đúng với tốc độ và sức mạnh đã tính toán trước thì cổ của Lý Ni-ma và Mây-tô-la-mu sẽ bị cắn đứt mà không biết ai là thủ phạm. 2 người chỉ cảm thấy đằng sau có 1 luồng gió thổi tới. Trên thảo nguyên luôn lộng gió này, 1 luồng gió từ sau lưng chẳng có gì lạ, chỉ có điều luồng gió này hơi mạnh hơn 1 chút mà thôi. Gió dù thổi mạnh chăng nữa cũng không thể cắn người, có gì mà phải sợ. Họ nhận thấy thứ đáng sợ lại đang đến từ trước mặt kia. Trong bụi cỏ lúp xúp phía trước nhảy ra mấy con Ngao Tạng. chính là mấy con Ngao Tạng cứ theo chân 2 người mấy ngày nay. Dưới sự dẫn đầu của Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao, bầy Ngao Tạng nhằm vào 2 người xông tới. Cả 2 sợ chết đứng. Bỗng họ ý thức được rằng sau khi theo dõi họ mấy ngày, giờ đây chúng mới ra tay. Thân hình chúng là thân hình mãnh thú, bản tính chúng là bản tính mãnh thú, răng chúng sắc nhọn thật dễ sợ, mồm há to, chúng ăn thịt người dễ như làn gió thổi rụng lá cây. 2 người bủn rủn chân tay, Lý Ni-ma “ối” 1 tiếng, phồi phệt xuống đất. Mây-tô-la-mu 2 tay úp vào ngực, trống ngực đập thình thình, sợ đến nước mắt giàn giụa, trong lòng nghĩ thế là hết, hôm nay chắc chết ở đây.

Bảy tám con Ngao Tạng nhảy chồm lên, nhưng không vồ 2 người mà vồ phía sau. Chỉ nghe thấy những tiếng gầm thét. Có tiếng gầm của Ngao Tạng, cũng có tiếng gầm của loài thú khác. Mây-tô-la-mu quay đầu lại bỗng hét lên 1 tiếng. Cô thấy 3 con báo kim tiền to cao sung sức định vồ 2 người bị đàn Ngao Tạng chặn lại cách 2 người có 5 bước. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao đang cắn xé vật lộn con báo đầu đàn. Mấy con Ngao Tạng khác điên cuồng giận dữ vồ vào 2 con báo còn lại. Chúng vật lộn, đầu húc đầu, răng cắn vào răng. Nhoáng 1 cái đã thấy máu tươi tuôn trào vào bộ lông trắng muốt của con Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao và làm ướt cả bộ lông đẹp của con báo kim tiền. Không biết máu của con nào, cũng không phân biệt được thắng bại, hệt như 1 trận đấm bốc nảy lửa ngang tài ngang sức, người không rành sẽ không biết ai dính đòn nhiều, ai dính đòn ít, chỉ đến khi trọng tài giơ tay người thắng cuộc lên, khán giả mới biết người cứ ôm đối thủ không ra tay lại là người thắng vì ra được cú nốc ao trời giáng. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao chính là kẻ thắng như vậy. Nó không cắn lung tung nhưng chỉ há miệng 1 cái đã cắm phập răng sắc nhọn vào cổ đối phương. Sau đó nó rút răng ra, để máu đối phương chảy ròng ròng. Sau cú cắn đó, nó rất ít tấn công. Cuộc chiến không ác liệt lắm. Tinh lực của nó chủ yếu tập trung vào phòng ngự, kiên trì dùng sức đè đối phương xuống không để mình bị cắn vào chỗ hiểm. Đợi khi con báo kim tiền lồng lộn nóng nảy cắn càn để lộ sơ hở, lần thứ 2 nó lại cắm chiếc răng nhọn sắc vào cổ đối thủ, lần này không chỉ cắm vào mà còn cắn đứt động mạch cổ của đối thủ. Khi máu phụt ra bắn đầy vào mặt nó thì nó khuỵ xuống nhảy phốc sang 1 bên. Con báo kim tiền vồ lại. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao lấy tư thế 1 chọi 1 đón cú vồ của đối thủ, nhưng đột nhiên nó nghiêng mình nằm xuống, nhe răng nanh ra, lợi dụng quán tính của con báo vồ lại, đâm rách cái bụng mềm mại của nó. Sau đó nó nhảy lên ngay, đứng thẳng nhìn. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao biết mình đã thắng. Nó có thể tiếp tục cắn để đối thủ mau chết, cũng có thể không cắn nữa để đối thủ chết từ từ. Ngao Vương chọn cách thứ 2 vì nó nuốt tiếc cái vẻ hùng tráng đẹp mê hồn của đối thủ nên muốn để con báo sống thêm 1 lúc nữa. Trong mắt Ngao Vương, địa vị của báo kim tiền trên thảo nguyên vượt xa những con thú hoang khác. Loài dã thú có bộ lông đẹp mê ly kia tuy là địch thủ, nhưng là 1 địch thủ cao quý và đáng được tôn trọng. Điều quan trọng hơn nữa là Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao lúc nào cũng cho rằng rất nhiều kỹ xảo đánh nhau của Ngao Tạng, đặc biệt là của mình, ví dụ chiến thuật chạy thật nhanh theo đường uốn lượn, cách ra đòn trước để linh hoạt nhảy vồ, giả bộ cắn mông đối thủ nhưng đợi khi đối phương quay đầu thì đối hướng cắn vào cổ… Những chiêu thức đó nó đều học được từ báo kim tiền và báo tuyết. Con báo kim tiền vồ 1 lần, lại vồ tiếp lần nữa. Ngao Vương không mảy may bận tâm, cứ tránh cái vồ của đối phương, nhìn đối thủ kiệt sức lòi ruột ra, nằm bẹp trên thảm cỏ 1 cách bi ai, không bao giờ còn đứng dậy được nữa.

Ngao Vương đứng yên như đang viếng con báo kim tiền đã chết. Nó ngẩng nhìn sang bên kia. Cuộc chiến cũng đã sớm kết thúc. 2 con báo cái cũng đã chết. Ngao Vương hài lòng hú mấy tiếng. Ngao đen Cô-rư, Ngao đực xám già và mấy con Ngao Tạng khác đi đến vây quanh nó. Chúng xem lại vết thương cho nhau, liếm máu dính trên lông nhau, chẳng thèm nhìn đôi nam nữ mà chúng đã dùng mạnh sống cứu từ miệng những con báo kim tiền. Chúng rời đi nhanh chóng. Mối hiểm nguy đã được giải trừ, đôi nam nữ này chẳng còn dính dáng gì đến chúng nữa. Chúng chưa bao giờ nghĩ rằng con người phải biết ơn chúng. Trái lại về phía mình, chúng lại luôn ghi lòng tạc dạ, báo đáp ân đức của con người. Đó chính là Ngao Tạng. Có thể nói ai làm ơn cho mình mà không báo đáp thì không phải Ngao Tạng, làm ơn cho ai mà cứ mong người ta báo đáp cũng không phải là đặc điểm của Ngao Tạng. Ngao Tạng là 1 loại mãnh thú như vậy đó. Chúng coi sứ mệnh của mình cao hơn tính mạng, mãi mãi không bao giờ nghĩ đến mình, chỉ nghĩ đến sứ mạng; không nghĩ mình sẽ được cái gì, chỉ nghĩ đến mình phải cống hiến cái gì; không nghĩ đến chịu ơn, chĩ nghĩ đến sự trung thành. Chúng là loài vật có phẩm chất đạo đức cao thượng, là tấm gương không thể chê trách được đối với con người và tất cả những con vật. Những người chăn cừu Tây Tạng muốn hình dung 1 người xấu thì nói người đó xấu như con sói, nếu muốn hình dung 1 người tốt thì nói người đó tốt như Ngao Tạng.

Lý Ni-ma đứng dậy, đi lại quan sát kỹ 3 con báo kim tiền đã chết: “Da báo đẹp quá, vứt ở đây thật tiếc.” Mây-tô-la-mu nhìn theo bảy tám con Ngao Tạng đi xa, những giọt nước mắt cảm kích rơi lã chã. Cô đột nhiên thốt lên: “Thật là oai phong lẫm liệt. Nếu nó là một người đàn ông thì tốt quá.” Cô chỉ vào con Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao. Cô không biết nó là Ngao Vương của thảo nguyên Chia-cu Tây, chỉ thấy nó thật uy phong, mạnh mẽ, không kém gì hổ và sư tử, thậm chí còn hơn. Nó mang hình ảnh đầu đội trời chân đạp đất, oai phong như 1 vị anh hùng, thật đúng với hình mẫu nam nhi dũng mãnh đầy nghị lực và vĩ đại mà cô tưởng tượng ra.
 

ohcuey

Member
Sợ lại gặp phải báo hoặc thú rừng khác, Lý Ni-ma và Mây-tô-la-mu men theo dòng sông Dã-la đi nhanh về nhà. Sắp đến Chia-cu Tây thì đứa bé ở trần lại xuất hiện. Nó đứng trên 1 bụi cây cao cách 2 người không xa lắm, áo da quấn cẩu thả giữa lưng. Sau nó là cả 1 mảng trời xanh biếc. Thằng bé thần sắc nghiêm nghị từ trên cao nhìn xuống 2 người. Khác với lúc nãy, xung quanh nó là 1 đàn chó lãnh địa vây quanh. Lý Ni-ma và Mây-tô-la-mu nhìn thấy ngay trong đàn chó Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao và mấy con chó khi nãy. Trông chúng như chưa hề có chuyện gì xảy ra.

Mây-tô-la-mu nhìn thằng bé trân trân. Bỗng cô giơ tay vẫy vẫy nó. Thằng bé xuyên qua bụi cây chạy đến. Cả 1 đàn chó lãnh địa mấy trăm con cũng theo thằng bé phi đến. Có mấy con cún con nghịch ngợm bỏ qua Lý Ni-ma, đến vồ cắn nhẹ thân mật vào chân Mây-tô-la-mu. Trời sinh ra chúng đã biết mình có thể chơi đùa với ai. Mây-tô-la-mu cúi xuống trêu những con cún. Cô ngoảnh đầu lại, thấy đôi chân trần của thằng bé đang nhảy múa. Cô kêu lên: “Sao cháu lại đi chân đất? Trong bụi cây có nhiều gai sắc, đâm phải sẽ nhiễm trùng đấy. Cháu phải đi giày vào, giày cao cổ, hiểu không?” Vừa nói cô vừa chỉ xuống đầu gối mình. Thằng bé hiểu cô quan tâm đến nó, cũng hiểu đôi giày cao cổ. Trên khuôn mặt đang căng thẳng của nó nở nụ cười ngây ngô dễ thương. Nó lấy chân phải lau máu dính trên chân trái. Bỗng nó quay lại, vẫy tay kêu to mấy tiếng: “Ao-tô-chi! Ao-tô-chi!”

Bầy chó lãnh địa hưng phấn lên. Chúng hướng vào nơi sâu thẳm trong rừng và cỏ dại chạy như bay, vừa chạy vừa sủa inh ỏi. Nếu dùng từ của loài người mà nói thì đó là thế “long trời lở đất”. Nhưng con chim ưng đang bay lượn thấp vút lên cao. Cách đó không xa, một đàn hươu môi trắng phi chạy trước tiên. Chúng vừa chạy thì linh dương và la rừng Tạng không cam chịu đứng yên, cũng chạy vòng quanh. Thực ra không phải đàn chó lãnh địa làm chúng sợ hãi. Chó lãnh địa không bao giờ săn đuổi chúng. Chúng chỉ là muốn có cái cớ để chạy, chạy thục mạng, vì chúng là những con vật thích chạy và chạy giỏi. Điều quan trọng hơn là hễ chúng chạy thì những con sói hoang, gấu ngựa, báo kim tiền và báo tuyết sẽ không tiếp tục ẩn nấp rình bắt chúng nữa. Những con thú đang ẩn nấp đó cũng sẽ chạy, thế là chúng lộ ra ngay trước đàn chó. Mà tại thảo nguyên mênh mông này, khiến đàn chó lãnh địa và đặc biệt là Ngao Tạng cả bầy cùng xông lên tấn công chính là sói hoang, gấu ngựa, báo kim tiền và báo tuyết hung hãn.

“Ao-tô-chi! Ao-tô-chi!” Thằng bé cởi trần theo sau đàn chó vừa kêu vừa chạy. Nó muốn đàn chó đuổi mấy con sói hoang, mấy con báo hoặc gấu ngựa Tạng thường đơn độc kiếm mồi từ chỗ ẩn nấp ra. Chỉ cần chúng xuất hiện, chó lãnh địa, đặc biệt là Ngao Tạng không cắn chết chúng quyết không buông tha. Nếu cắn chết chúng thì thằng bé sẽ có da sói, da báo hoặc gấu. Nó sẽ đem những thứ đó về thảo nguyên Tô-mi, ở trung tâm thảo nguyên Chinh-cô-ama, Hiệp Lan Đạo. Trên thảo nguyên Tô-mi có chợ phiên. Ở đó có bán giày cao cổ, kiểu gì cũng có. Nó có thể bán những tấm da thú rồi mua giày, hoặc cũng có thể đổi lấy giày. 1 tấm da thú đổi 1 đôi giày. Vì cô Mây-tô-la-mu đẹp như tiên kia đã nói: “Cháu phải mang giày vào.”

“Ao-tô-chi! Ao-tô-chi!” Thằng bé cởi trần vừa kêu vừa lùa đàn chó lãnh địa. Đàn chó điên cuồng chạy. Như nó mong chờ, con sói hoang xuất hiện. Lũ chó chạy ào ào trong bụi cỏ. Gấu ngựa Tạng cũng xuất hiện trong sự mong chờ của nó. Con gấu ngựa đứng ngây ra nhìn đàn Ngao Tạng chạy đến tập kích. Chạy nhanh nhất là Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao. Con gấu quay người chạy thục mạng. Nhưng báo kim tiền và báo tuyết không thấy xuất hiện như mong đợi của thằng bé. Tuy nhiên lũ Ngao Tạng biết, hổ báo không xuất hiện ở đây nữa, chí ít là trong mười ngày nửa tháng. Chúng đã đánh hơi thấy 3 con báo chết. Hiện giờ chắc chúng đang đến đó viếng thăm rồi.

“Ao-tô-chi! Ao-tô-chi!” Nhưng lạ quá, dường như tiếng kêu của thằng bé cởi trần bỗng mất đi sức mạnh. Những con Ngao Tạng chạy trước không bao vây sói hoang, gấu ngựa Tạng nữa. Chúng chạy chậm lại, sau đó dừng lại một cách lộn xộn. Những tiếng kêu thần bí đã ngăn chúng lại trước 1 gò cỏ: “Ma-ha-cơ-la-pân-sân-pao! Ma-ha-cơ-la-pân-sân-pao!”

Bảy đứa trẻ Ama Thượng đã xuất hiện.

Thằng bé cởi trần dừng lại, con mắt đầy phẫn nộ nhìn về phía trước. Nó cố hết sức ngẩng cổ kêu: “Ao-tô-chi! Ao-tô-chi!” Dù sao chỉ có 1 mình nó kêu, làm sao át được tiếng thần chú của 7 đứa trẻ kia khi chúng đồng thanh kêu. Đàn chó chỉ nghe thấy tiếng: “Ma-ha-cơ-la-pân-sân-pao!” Nghe thấy là phải phục tùng. Chẳng ai có thể giải thích rõ tại sao những con Ngao Tạng hung hãn mạnh mẽ vô địch này phải phục tùng cái tiếng chẳng ai hiểu ấy. Chó lãnh địa hết con này đến con khác sủa, nhưng tuyệt nhiên không thấy con nào nhảy vồ vào nữa. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao nhìn theo con gấu ngựa Tạng chạy trốn. Nó đi đi lại lại vẻ đầy do dự.

Trên khuôn mặt thằng bé cởi trần hiện lên vẻ hận thù. Nó hận 7 đứa trẻ Ama Thượng, hận đàn chó lãnh địa nghe thấy tiếng kêu cổ quái của đối phương đã bỏ việc đuổi bắt. Khi thù hận nó không nghĩ đến mình nữa. Nó chạy về hướng kẻ thù, không mảy may đếm xỉa đến câu “hảo hán không dại chịu cái thiệt trước mắt”.

Nhưng 7 đứa trẻ Ama Thương kia không muốn thằng bé cởi trần đến gần, vì hễ đến gần tất nhiên phải 1 chọi 1, vật nhau, đánh bốc hoặc đấu dao. Người bị thương chưa chắc đã không phải là mình. Chúng không muốn bị thương, càng không muốn chết, nhưng cũng không muốn làm trái quy tắc của thảo nguyên không đánh hội đồng. Đánh hội đồng là phong cách của chó Tạng lâu la, không phải phong cách của con người, thậm chí không phải phong cách của Ngao Tạng với Ngao Tạng. Thế là 7 đứa trẻ lần lượt cởi U-tô để quăng đá buộc quanh lưng ra, quay tít rồi văng lên vù vù.

Đá văng ra trước mặt thằng bé cởi trần, găm xuống đất. Thằng bé cởi trần sững lại, quay đầu nhìn nàng tiên Mây-tô-la-mu đang đứng xa vẫy gọi: “Về đây, cháu mau về đây.” Thằng bé hình như trời sinh có thể hiểu được ý cô nói gì, mặc dù nó không biết tiếng Hán. Nó nghe theo quay về bên cạnh Mây-tô-la-mu. Không thấy đá của 7 đứa trẻ quăng lại nữa. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao dẫn đầu cả đàn chó lãnh địa nhanh chóng trở về bên cạnh thằng bé cởi trần trong những tiếng kêu lẻ tẻ: “Ma-ha-cơ-la-pân-sân-pao!” Mây-tô-la-mu nói: “Thật nguy hiểm, hòn đá có mắt đâu. Lúc nãy cô gọi cháu, cô còn chưa biết tên cháu. Tên cháu là gì?” Thằng bé chớp chớp mắt không trả lời. Cô lại giải thích: “Tức là tên người ấy mà. Ví dụ: Ni-ma, Cha-xi, Mây-tô-la-mu…” Thằng bé nghe hiểu ý, nó nói to: “Chiu-chu”. Mây-tô-la-mu nói: “Thu Châu? (Chiu-chu tiếng Tạng đồng âm với Thu Châu tiếng Hán) Thu trong mùa thu, Châu trong trân châu. Cái tên hay quá!” Lý Ni-ma nói: “Hay gì mà hay. Chiu-chu nghĩa là con cún con.” Nói rồi chỉ tay vào 2 con cún con đang đùa nghịch. Thằng bé cởi trần gật đầu. Lý Ni-ma lại nói: “Anh khẳng định là apa, ama (cha mẹ) nó rất nghèo, mong nó bạ đâu ăn đấy vẫn lớn lên khoẻ mạnh, đừng để quỷ dữ ở điện Diêm Vương bắt mất hồn, mới đặt tên cho nó như vậy. Cún con dễ sống lắm. Mệnh chó rất cứng. Cũng có thể là apa ama nó là dân lang thang nghèo xác nghèo xơ, thấy mạng chó còn quý hơn mạng người nên mới đặt cho nó cái tên chan chứa niềm hy vọng như vậy. Tóm lại, người có cái tên này ắt phải là con nhà du mục nghèo khổ.” Mây-tô-la-mu nói: “Cún con cũng hay lắm chứ. Cún con trên thảo nguyên đều là anh hùng hảo hán. Chiu-chu cũng vậy, dám 1 mình xung phong trận mạc.” Lý Ni-ma nói: “Vậy thì gọi cháu là Pa-ơ. Pa-ơ, tên là Pa-ơ nhé?” Thằng bé hiểu pa-ơ tiếng Tạng nghĩa là anh hùng. Nó không muốn lấy cái tên cát tường này, bướng bỉnh nói: “Chiu-chu cơ.” Mây-tô-la-mu xoa đầu thằng bé: “2 tên ghép lại cũng được chứ, Pa-ơ-chiu-chu, nghĩa là cún con anh hùng.” Thằng bé nhìn cô cười gật đầu. Mây-tô-la-mu gọi: “Pa-ơ-chiu-chu!”, nó “dạ” một tiếng rất to.

Pa-ơ-chiu-chu rời họ nhanh chóng vì nó thấy Mây-tô-la-mu lại nhìn vào đôi chân đất của nó. Nó vội giấu chân vào bụi cỏ, thấy vẫn lộ, bèn rời đi nhanh chóng. Nó đi về phía rừng sâu, trèo lên 1 cái đồi mọc đầy cỏ may, hướng vào 7 đứa trẻ Ama Thượng dùng đá U-tô vừa văng vừa i i a a kêu gì nghe không hiểu. Mây-tô-la-mu hỏi Lý Ni-ma: “Nó nói gì vậy?” Lý Ni-ma khẽ suỵt, lắng nghe rồi dịch lại bằng tiếng Hán: “Hình như nó nói: kẻ thù Ama Thượng, chúng bay nghe cho rõ đây. Ta là anh hùng Chiu-chu. Ta ra lệnh cho chúng bay rời khỏi thảo nguyên Chia-cu Tây ngay. Bọn bay mà không rời đi ngay thì tối nay chúng bay, 7 cục *** sói của thảo nguyên Ama Thượng sẽ chết trong tay 7 anh hùng hảo hán của thảo nguyên Chia-cu Tây chúng tao. Hãy đợi đấy, thời khắc quyết chiến sắp đến rồi.” Mây-tô-la-mu nói: “Thằng nhóc này, báo nó là anh hùng thì nó tưởng mình là anh hùng thật sao? Chúng ta không thể để nó đi đánh nhau. Hăng máu lên, bị thương, bị đánh chết thì làm thế nào?”
Nhưng họ không kịp cản. Pa-ơ-chiu-chu vừa kêu vừa chạy về hướng nhà vọng gác. Ngao Vương hổ đầu Tuyết Ngao hình như đoán được ý thằng bé, dẫn đầu toàn bộ chó lãnh địa ùa chạy theo. Phút chốt sông Dã-la vang lên tiếng đàn chó lội nước ào ào, trên thảo nguyên tiếng đàn chó chạy loạt soạt. Mặc cho Mây-tô-la-mu gọi khản cả cổ nhưng Pa-ơ-chiu-chu chẳng nghe thấy gì.
 

ohcuey

Member
Khi Lý Ni-ma và Mây-tô-la-mu về đến Chia-cu Tây, hoàng hôn đã buông xuống. Chủ nhiệm Bạch đang đứng đợi trên dốc cỏ trước cửa nhà vọng gác ngoài trát phân bò. Ông hỏi Hán Cha-xi thế nào rồi, sao 2 người đi lâu thế. Lý Ni-ma nói Hán Cha-xi khá lắm rồi, con Cang-rư-sân-cơ cũng đã tỉnh lại. Cả 2 cùng ngồi chơi với Hán Cha-xi. Con Cang-rư-sân-cơ và con Na-rư đã đi được mấy bước. Chủ nhiệm Bạch nói: “Tốt, các đồng chí làm rất tốt. Việc làm của Hán Cha-xi đã chứng minh con chó là báu vật của dân Tạng. Anh đối xử tốt với chó thì dân Tạng cũng sẽ đối xử tốt với anh.” Mây-tô-la-mu nói: “Cái này thì tôi biết rồi. Hiện nay quan hệ của tôi với những con chó của chủ nhà rất tốt.” Chủ nhiệm Bạch nói: “Tốt lắm. Tôi nghe nói thảo nguyên Ama Thượng và một số nơi khác đến tận bây giờ các vị Lạt ma vẫn không cho người của uỷ ban công tác, bất kể nam nữ vào chùa. Chỗ chúng ta, thông qua việc yêu thương 1 con chó, Ca… Cang… Cang-rư-sân-cơ, đã đột phá được “quan ải” khó khăn này. Không những Hán Cha-xi được vào ở trong chùa, ngay cả nữ đồng chí cũng có thể vào chùa lúc nào cũng được. Điều đó chứng tỏ giai đoạn nhiệm vụ tìm hiểu dân tình, liên lạc với tầng lớp trên, tranh thủ lòng tin của dân, đứng vững trên địa bàn của chúng ta đã hoàn thành rất tốt. Đương nhiên chúng ta còn phải thâm nhập vào quân chúng hơn nữa. Sau này các đồng chí vào chùa không những chỉ thăm hỏi Hán Cha-xi, không những phải đối xử tốt với Cang-rư-sân-cơ và Ngao đen Na-rư nhưng 1 con người, mà còn phải tranh thủ tiếp xúc với các vị lạt ma, phải làm những gì họ thích. Nếu khiến họ cảm giác được là tín ngưỡng của mình được tôn trọng thì về tình cảm chúng ta và họ đã là người 1 nhà rồi. Còn 1 việc nữa cũng nên được tuyên dương, đó là sau khi chúng ta đến thảo nguyên Chia-cu Tây, rất nhiều đồng chỉ đã tự đặt cho mình 1 cái tên Tạng. Như đồng chí là Lý Ni-ma, đồng chí là Mây-tô-la-mu, cách làm đó rất tốt. Tôi thấy chỉ cần đổi tên Tạng, dân Tạng sẽ đối xử với mình như người nhà. Chiều nay tôi đến nhà bạt của tù trưởng Xuô-lang-uang-tuôi của bộ lạc sông Dã-la. Gặp phật sống Tan-Trân ở đó, tôi xin phật sống đặt cho tôi 1 cái tên Tạng. Phật sống Tan-Trân và tù trưởng Xuô-lang-uang-tuôi rất phấn khởi, đến nỗi vừa bưng trà vừa rót rượu mời tôi. Tôi nói: “Rượu ta chua uống vội, hãy đặt tên trước đã.” Phật sống Tan-Trân đặt cho tôi 1 cái tên rất hay, có cả họ của tôi trong đó. Tên là Bạch-mã-u-chinh. Có biết Bạch-mã-u-chinh là ai không? Tức là Liên Hoa Sinh. Thế Liên Hoa Sinh là ai? Chính là tổ sư phát Mật tông Lạt ma. Lấy 1 cái tên vĩ đại như vậy đặt cho tôi, chứng tỏ họ rất thật lòng thật ý.” Mây-tô-la-mu nói: “Phật sống Tan-Trân đặt cho đồng chí cái tên làm đồng chí xúc động đến suýt chút nữa uống say mềm đấy.” Chủ nhiệm Bạch-mã-u-chinh nói: “Ồ, sao cô biết?” Mây-tô-la-mu và Lý Ni-ma cùng nói: “Chúng tôi ngửi thấy mùi rượu rồi.”

Mấy người chuyện trò thêm 1 lúc, Lý Ni-ma theo chủ nhiệm Bạch về nhà vọng gác, Mây-tô-la-mu trở về nhà bạt đúng vào giờ đàn gia súc về chuồng. Chó chăn cừu chạy vất vả suốt ngày trên thảo nguyên đã theo đàn gia súc trở về nhà, cộng thêm những con chó trông nhà, 5 con Ngao Tạng to lớn đứng thẳng tắp trên sân trước cửa nhà bạt. Trên sân còn có 3 con cún con, từ xa chúng đã thấy cô gái người Hán Mây-tô-la-mu. Chúng cùng cậu chủ nhỏ 7 tuổi Nuô-bu chạy ra đón Mây-tô-la-mu. Mây-tô-la-mu vui mừng gọi tên đứa trẻ và tên từng chú chó: “Nua-bu, Ca-ca, Cơ-san, Pu-mu.” Và cuối xuống bế con cún con lên, lại xoa đầu Nua-bu. 2 con cún con khác nghịch ngợm vồ vào người cắn gấu quần cô. Cô bỏ con cún trên tay xuống, bế con khác lên, rồi bế luôn cả 3 chú cún. Chúng đều mới 2 tháng tuổi, mỗi con đã năng đến 5, 6 kg. Cô bế cả 3 đi rất vất vả. Những con chó to thấy cô thích những con chún như vậy đều vẫy đuôi rối rít với cô. Mẹ của bọn cún, 1 con chó trông nhà màu đen, chân sau hơi thọt ngồi trên đất cười tít cả mắt nhìn cô. Chồng của con chó thọt là chó chăn cừu trắng Ca-pao-sân-cơ, cả ngày không gặp Mây-tô-la-mu, đến gần cô liếm tay vẻ thân thiện. Cô biết đó là gì, cô nói: “Đói rồi ư? Đợi đấy nhé, sắp ăn cơm rồi.” Cô đặt 3 chú cún xuống, vén rèm cửa đi vào nhà.

Trong nhà bạt, già Ni-ma đang chuẩn bị thức ăn cho chó. Già lấy từ túi da dê 1 ít phổi bò và thịt đùi dê đã băm nhỏ bỏ vào cái chậu gỗ to, trong đó đã có 1 nửa là súp thịt, sau đó lấy thêm ít bột thanh khoa rang từ 1 cái thùng để ở góc tường. Mây-tô-la-mu ngồi xổm bên cạnh chậu gỗ, đón cái thìa từ tay già Ni-ma rồi ra sức trộn, trộn xong cùng Nua-bu khiêng chậu gỗ ra ngoài cửa.

Từ ngày Hán cha-xi vì bảo vệ Cang-rư-sân-cơ được các vị sư chùa Chia-cu Tây yêu quý, ngày nào Mây-tô-la-mu cũng cho chó của chủ nhà ăn. Cô phát hiện ra mỗi lần cô cho chó ăn, cả nhà già Ni-ma đặc biệt phấn khởi, lúc nào cũng nhìn cô cười khà khà. Trước khám thờ phật đặt trong nhà bạt có thêm 1 đĩa đèn dầu và bát nước sạch, đó là đồ lễ cô gái người Hán Mây-tô-la-mu dâng lên phật. Cả nhà già Ni-ma đã coi cô là người nhà rồi. Cho chó ăn mấy lần, Mây-tô-la-mu phát hiện ta loại chó mà những người thảo nguyên gọi chúng là Ngao Tạng này không phải là chó bình thường. Chúng chỉ không biết nói thôi, còn lại cái gì cũng biết. Đặc biệt riêng về phương diện nghe hiểu ngôn ngữ của con người, chúng có trí thông minh hơn cả người. Thông thường người Hán nói tiếng Hán thì dân Tạng không hiểu, người Tạng nói tiếng Tạng thì dân Hán không hiểu. Nhưng Ngao Tạng lại khác, chúng hiểu cả tiếng Hán lẫn tiếng Tạng. Nếu bạn nói bằng tiếng Tạng: “Đi gọi Nua-bu lại đây”, thế là nó chạy đi gọi. Nếu bạn nói tiếng Hán: “Đi gọi Nua-bu lại đây.” Nó cũng hiểu và chạy đi gọi ngay. Hình như chúng hiểu ngôn ngữ con người không phải bằng thính giác mà bằng cảm ứng tâm linh. Chúng nghe được không phải tiếng của anh mà là suy nghĩ của anh.

Mây-tô-la-mu vừa xem bầy chó ăn vừa nói chuyện với con trai già Ni-ma, anh Ban-chi-ô vừa đi chăn cừu về. Cô hỏi: “Chiu-chu? Chiu-chu?” Pan-chi-ô hiểu cô muốn tìm hiểu về Chiu-chu. Anh vừa kể vừa dùng tay ra hiệu: Thằng bé mồ côi cả cha lẫn mẹ. 12 năm trước cha nó bị chết trong trận chiến Ngao Tạng. Sau khi cha chết, mẹ nó lấy chú nó. Nó rất sùng bái chú nó vì chú quyết chí báo thù cho cha nó. Nhưng chú nó cũng bị người Ama Thượng giết. Sau khi chú nó chết, mẹ nó, 1 người đàn bà tính lầm lỳ, u uất đã lấy người tiễn ma Ta-chư mà ai cũng sợ. Người đàn bà đó biết nếu hi vọng con trai đi báo thù, kết cục con trai bà cũng sẽ mất mạng. Bà không muốn con trai mình chết. Người đàn bà đó đặt hy vọng và người tiễn ma Ta-chư. Ta-chư đã thề độc trước mặt người đàn bà đó, nhờ thần Bạch phàm và Diêm la địch làm chứng, nếu ông ta không giúp được người đàn bà đó báo thù cho 2 người chồng trước của bà ta thì kiếp sau, kiếp sau nữa luân hồi, ông ta chỉ có thể làm con ma chết đói, con ma chết dịch và ma ốm đau. Ngoài ra ông ta sẽ bị trừng phạt không thương tiếc của chúa xác Thua-linh, chết đi sống lại trong hình phạt lửa đỏ và băng tuyết. Đáng tiếc là người đàn bà đó không đợi được đến ngày ông ta báo thù cho bà. Lấy được người tiễn ma Ta-chư 2 năm thì bà ốm chết. Sau khi người đàn bà chết, Ta-chư rời Chia-cu Tây, dọn đến cánh rừng dưới chân núi tuyết Tan-xiang phía Nam thảo nguyên Chia-cu Tây. Chiu-chu cho rằng mẹ nó chết vì nhiễm ám khí của người tiễn ma Ta-chư, nên nó không chịu đi theo Ta-chư, cũng không thừa nhận ông ta là cha dượng mình. Người tiễn ma rất thất vọng. Trước khi đi, ông ta nói với Chiu-chu: “Mày không thể suốt đời là 1 người lang thang không nhà không cửa. Mày theo ta đi, làm con của người tiễn mà giàu có của thảo nguyên Chia-cu Tây này. Chỉ cần mày gọi ta 1 tiếng cha, ta sẽ cho 1 con bò, gọi 10 tiếng cha, ta chò 10 con bò, gọi 100 tiếng cha, ta cho mày cả đàn bò. Chiu-chu không chịu gọi. Nó nói nó không có cha, cha nó chết rồi. Thế là 1 mình Chiu-chu lang thang khắp Chia-cu Tây. Dân du mục thương nó đã mất 3 người thân, thường cho nó thức ăn. Nó là đứa trẻ tốt bụng, thức ăn cho nó, nó chỉ ăn 1 nửa, 1 nửa để giành cho chó lãnh địa.

Mây-tô-la-mu vừa nghe vừa gật đầu. Thực ra phần lớn câu chuyện cô không hiểu lắm. Nhưng cô cũng không cần hiểu rõ, cô chỉ muốn biết lúc này có thể tìm Chiu-chu ở đâu để ngăn chặn cuộc chiến sống còn giữa “7 vị anh hùng hảo hán” của thảo nguyên Chia-cu Tây và “7 cục *** chó khô” của thảo nguyên Ama Thượng.

Mây-tô-la-mu hỏi lại: “Chó lãnh địa ư? Anh nói đến chó lãnh địa nào? Có phải anh nói ở đâu có chó lãnh địa thì ở đấy sẽ tìm được Chiu-chu?” Ban-chi-ô ngơ ngác, không chắc mình đã hiểu những gì Mây-tô-la-mu nói. Cô bác sĩ người Hán xinh đẹp thấy vậy kêu lên: “Chiu-chu, Chiu-chu ấy mà, tìm Chiu-chu ở đâu?”

5 con Ngao Tạng và 3 chú cún con đang cắm đầu ăn đều ngẩng lên nhìn Mây-tô-la-mu. Mây-tô-la-mu nhắc lại: “Tìm Chiu-chu ở đâu?”, lần này cô hỏi đàn chó. 5 con Ngao Tạng nhìn nhau. Chó chăn cừu Ca-pao-sân-cơ lông trắng như tuyết quay đầu chạy trước tiên, 2 con chó chăn cừu lông đen như mun Sa-chia-sân-cơ và Chi-ông-bao-sân-cơ cũng chạy theo. Con Ngao Tạng to lớn Sư-mao muốn chạy theo, nhưng sực nhớ ra mình là chó trông nhà, con có nhiệm vụ tuần tra quanh nhà suốt đêm, vội dừng lại sủa ông ổng. 3 chú cún con hoạt bát hẳn lên. Hình như chúng hiểu được ý của cha, phi nhanh theo đi, lại phi nhanh chạy về, chạy vòng quanh bà mẹ thọt chân và chậu cơm, nhoáng cái đã lăn ra đất đùa với nhau.

Pan-chi-ô vẫy tay với Mây-tô-la-mu: “Đi đi, chúng biết Chiu-chu ở đâu đấy.” Mây-tô-la-mu hiểu ra, liền chạy theo. Cô vừa chạy vừa gọi to tên của 3 con Ngao Tạng chăn cừu, 1 trắng 2 đen: “Ca-pao-sân-cơ, Sa-chia-sân-cơ, Chi-ông-bao-sân-cơ, đợi ta với!” Sau này cô mới biết Ca-pao-sân-cơ nghĩa là sư tử trắng, Sa-chia-sân-cơ là sư tử mới, còn Chi-ông-bao-sân-cơ là sư tử chim ưng.

Pan-chi-ô bước vào nhà bạt, ngồi xuống uống trà. Già Ni-ma nói với con trai: “Trời tối rồi, con đi theo cô ấy thì hơn.” La-trân, vợ Pan-chi-ô đang chuẩn bị bữa tối trên bếp lò cũng nói: “Anh đi gọi cô ấy về đi, sắp ăn cơm rồi.” Pan-chi-ô nói: “Cha, cha có thấy trên núi nhà vọng gác có dã thú ăn thịt người bao giờ chưa? Hơn nữa có đến 3 con chó chăn cừu dẫn cô ấy đi và bảo vệ cô ấy kia mà. Còn La-trân, em nghe đây, người ta là người Hán đến từ nơi rất xa, có những việc quan trọng lắm phải làm, làm sao anh có thể gọi người ta về chứ. Em đừng ngại phiền phức, bao giờ Mây-tô-la-mu về, em hãy bưng bát trà sữa và thịt cừu nóng hổi đến cho cô ta nhé.”

Vừa lúc đó có tiếng sủa của chó mẹ chân thọt và chị nó, con chó trông nhà Sư-pao. Tiếng sủa không gay gắt, như chúng đang nói chuyện với nhau, dịu dàng và có phần nhắc nhở. Pan-chi-ô biết không phải tín hiệu nguy hiểm nên không để ý. Pan-chi-ô không nghĩ việc này là nguy hiểm. Hệt như người lớn nói với bọn trẻ 1 cách tình cảm: “Tối rồi, đừng ra ngoài nữa. Chẳng may gặp kẻ xấu thì sao?” Câu nói này thể hiện tình thân và sự lo lắng trong lòng, sự quan tâm xuất phát từ kinh nghiệm và sự từng trải. Mối quan tâm của chúng là Nua-bu, đứa con trai 7 tuổi của Pan-chi-ô. Nua-bu đã rời nhà bạt, đuổi theo Mây-tô-la-mu xinh đẹp đi vào màn đếm sâu thẳm. Nua-bu đứng ngoài cửa, nghe mẹ nói sắp ăn tối thì nghĩ bụng: “Bố mẹ ơi, con đi gọi Mây-tô-la-mu về nhé.” Rồi nó đi liền. Khi đền con đường mòn quanh co dẫn lên núi vọng gác, nghe tiếng chó sủa trên núi vọng xuống, Nua-bu lại quên sạch việc mình định làm.
 
Top