greenvet-hanoi
Chuyên gia thú y
Thiền dân gian bàn về tình yêu
“Nhân loại dù tiến bao xa
Hôn nhau vẫn cũ như là ngày xưa
Dù người làm được nắng mưa
Thì em vẫn mới ta chưa hiểu gì”
Định nghĩa
Thái cực sinh lưỡng nghi, âm và dương làm chuyển hoá vũ trụ, chuyển hoá toàn thế giới cũng chỉ bởi đàn ông và đàn bà. Những mối tình thượng đế đủ cả ghen tuông, hờn giận trên đỉnh núi Olimpia của Zớt và Hê-len làm rung chuyển cả thiên đường và trái đất. Mối tình tay ba giữa Ngọc hoàng thượng đế cùng Thiên hậu và Tây Vương Mẫu còn để lại hình ảnh Hằng Nga và Hậu Nghệ cho muôn đời sau. Rồi đến cảnh Thiên Bồng Nguyên Soái vì quấy rối tình dục Hằng Nga trên cung quảng nên bị đày xuống hạ giới làm Trư Bát Giới mà vẫn không chừa tính hiếu sắc.
Rồi cảnh trần và tiên giao hoan nơi chốn Đào nguyên giữa Từ Thức, Lưu Nguyễn với tiên nữ còn mãi để lại trong lòng người niềm bâng khuâng luyến tiếc mơ hồ.
Ngay dưới âm ty lạnh lẽo, tối như đêm, dầy như đất, những mối tình ma quái trong “Liêu Trai Chí Dị” cũng làm rạo rực lòng người trong lúc lãng đãng mây chiều, nơi thâm sâu cùng cốc, lập loè đom đóm ma chơi:
“Một làn hơi trắng toả trong sương
Hài xanh lướt cỏ cánh thoa vương
Bồng lên thiếp nhẹ hơn làn khói
Tình nồng quên cả cõi âm dương”
Còn trong chốn cát bụi hồng trần cũng đủ cảnh giới yêu hơn cả Bồng lai tiên cảnh, hoặc chốn “Liêu Trai Chí Dị”.
“Kìa xem đôi yêu ma bươm bướm
Sống ở trên đời đã là sự điên rồ
Lại còn định bay lên tận trời xanh
Sao không ngủ đi trong sự dịu êm”
Vậy, tình yêu là gì mà ngay cả:
“Kìa cầm thú là loài động vật
Dẫu vô tri cũng biết đèo bòng
Có âm dương, có vợ chồng”
Đạo trời đất là đạo quân bình. Quân bình âm dương, quân bình lý trí và tình dục. Quân bình cửa Phật giữa Quán Thế Âm Bồ Tát, hai bên là Văn Thù Bồ Tát – lý trí và Phổ Hiền Bồ Tát – tình yêu theo đạo Phật là đồng nhất giữa lý trí và tình cảm giữa Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát. Tình yêu của Phật trải ra toàn cõi chúng sinh gọi là từ bi hỷ xả. Tình yêu của cõi giới niết bàn, của Phật không có ghét. Tình yêu của Phật là tình yêu tự đồng nhất:
“Nếu yêu những kẻ yêu nhau
Thì mình đâu có nỗi đau nhân tình
Nếu thân không nệ cái hình
Ra ngoài sự vật thì mình thành tiên”
Theo kinh Tân ước, tình yêu là do A-Đam và E-Va ăn phải quả cấm nơi địa đàng. Còn loài người cũng do trò chơi tình ái của Tạo hoá sinh ra. Và loài người lại chơi trò chơi tình ái sinh ra như Tạo hoá.
“Tạo hoá tạo ta chơi
Ta chơi trò tạo hoá
Hợp tan mây thành đá
Nhật nguyệt hoá như như”
Napoléon hỏi mỹ nhân:
- Sao nàng đẹp thế còn trang điểm làm gì?
Mỹ nhân đáp:
- Hoàng đế đã chiếm cả thế giới còn chiếm thêm mỹ nhân làm gì?
Câu hỏi này chỉ có bắc thang lên hỏi ông trời!
Sao Càn Long có 3000 cung tần mỹ nữ còn du Giang Nam chơi gái lầu xanh làm gì?
Tống Huy Tôn phải đào hầm hàng 10.000m để trốn đến lầu xanh làm tình cùng kỹ nữ Lý Sư Sư, vì sao?
Vua Tự Đức đã bão hoà tình ái vẫn mủi giải khóc lóc người tình:
“Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi”
Theo phép dùng binh của Tôn Tử, có 36 kế thì mỹ nhân kế là rẻ nhất vì có sự đồng mưu giữa trời và người.
“Bẫy tình tạo hoá lừa ta
Bị yêu lại cứ tưởng là được yêu”
Tô Châu Đát Kỷ, Dương Quý Phi, Điêu Thuyền đẹp đến đổ quán siêu đình. Vì tự cổ anh hùng đa hiếu sắc, mấy khi anh hùng vượt qua được cửa ải mỹ nhân. Loài người vốn hiếu sắc hơn hiếu đức.
Ngay cả đến các tổng thống như Bil-clin-tơn cũng từng gây ra biết bao vụ scandal tình ái làm cho khốn khổ, điêu đứng cùng cô thư ký mỹ miều.
Từ Hải “trước cờ ai dám tranh cường, dọc ngang nào biết trên đầu có ai” cũng vì tình mà chết đứng. Để đến nỗi Nguyễn Du vi quá đau xót, nên đã có lúc định nghĩa quá vội vàng và phiến diện về tình yêu: “Tu là cõi phúc, tình là dây oan”. Định nghĩa của Nguyễn Du về tình yêu mới chỉ đánh giá được một mặt của tình yêu.
Tình yêu cũng như cõi phúc, khi tình yêu xẩy ra như một năng lượng không có bản ngã bên trong, nó là sự giải thoát, là niết bàn. Nên định nghĩa “tình là dây oan” không phải là hoàn toàn đúng. Vì tình vừa là phúc, vừa là oan. Hoạ là chỗ nấp của phúc, phúc là chỗ nấp của hoạ. Hoạ hoạ, phúc phúc đều tự tình ái sinh ra. “Tình là dây oan” là một nửa của chân lý, còn nửa kia nằm ở phía đối lập. Suy lý có một chiều, hiện hữu có hai chiều.
Nguyễn Du, hiệu là Tố Như. Tố Như nghĩa là chấp nhận vạn pháp không tốt, không xấu.
“Khi vô tích, khi lâm tri
Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương”
Tố Như là tự tánh rỗng không, là chân như. Nhà văn chỉ chứng kiến chứ không có ý kiến. Tố Như là không chấp có, không chấp không, tâm bất nhị. Khi Nguyễn Du chấp vào cái có: “tu là cõi phúc, tình là dây oan”. Tố Như bị kẹt vào cái có. Tố Như thành tố hữu. Hữu nghĩa là có, nghĩa là chấp vào cái có. Như nghĩa là sắc sắc không không. Sắc tức thị không, không tức thị sắc.
“Kinh Phật lưu truyền tám vạn tư
Học hành không thiếu cũng không dư
Đến nay tất cả đều quên hết
Còn lại trong đầu một chữ như”
Tố Hữu là nhà thơ cách mạng duy lý. Ông đã có định nghĩa tình yêu tỉnh táo sâu sắc như triết học Đề-mô-crít, như thuyết cấu trúc cơ học Niutơn. Cơ học sinh cơ tâm:
“Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ và phần để em yêu
Em sung sướng thế cũng nhiều anh nhỉ
Rồi hai đứa hôn nhau hai người đồng chí”
Vì chấp vào cái hữu, không chấp vào cái vô, Tố Hữu đã tư duy theo hình nhi hạ.
Xuân Diệu cũng vậy. Xuân Diệu là nhà thơ nhập thế. Xuân Diệu coi tình yêu như một thực thể bất động, có thể chia cắt, đo đếm từng phần như toán học. Cỗ máy tình yêu có thể tháo rời ra từng bộ phận. Để rồi Xuân Diệu cũng bế tắc như các nhà khoa học là không thể tổng hợp lại được:
“Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà lại được yêu
Cho rất nhiều mà trả chẳng bao nhiêu”
Không, yêu là sự biến đổi huyền ảo giữa thân và tâm, sự biến đổi nhanh hơn cả tốc độ ánh sáng. Chưa đầy chớp mắt Lưu Nguyễn đã cùng tiên hoan lạc nơi Bồng lai tiên cảnh. Rồi cũng chỉ chớp mắt lại bần thần ngơ ngác ngay giữa quê hương.
“Lưu Nguyễn không tìm lại gặp tiên
Tìm về trần thế hoá vô duyên
Đi mà không đến là Tây trúc
Đến mà chẳng được, ấy Đào Nguyên”
Lần đầu, Lưu Nguyễn lạc đường tới thiên thai là do kỳ ngộ. Lần sau, lạc đường ngay giữa quê hương là do tự mê.
Làm sao mà Xuân Diệu cân, đo, đong, đếm được tình yêu. Vua ngủ với cung tần mỹ nữ nơi màn loan trướng huệ sướng gì hơn kẻ ăn mày ngủ với nhau nơi đầu đường só chợ.
“Rồi sẽ hiểu ít nhiều đều là đủ
Trẻ hay già vô nghĩa trước mai sau
Vua ôm ấp bao cung tần mỹ nữ
Sướng hơn gì người cùng khổ ôm nhau”
“Yêu là chết ở trong lòng một ít”. Trong cõi tâm linh thế nào là ít? Có khi 1> 1000. “Một miếng khi đói bằng gói khi no”, “bát cơm siếu mẫu đền ơn nghìn vàng”. Ít, nhiều tự tánh đều không. Yêu chung thuỷ một người không ít hơn yêu hàng nghìn người. Chỉ hôn một lần mà có khi đã mãi mãi hôn nhau.
“Một đêm quân tử nằm kề
Còn hơn thằng ngốc vỗ về quanh năm”
Còn cả đời phải sống với người mình không yêu thì có cũng bằng không:
“Con vợ khôn lấy thằng chồng dại
Như bông hoa nhài cắm bãi *** trâu”
Có lúc vì quá mê, Xuân Diệu đưa tình yêu ra mặc cả, tính toán một vấn đề không thể mua bán, mặc cả như chợ búa:
“Có thể mua được người yêu
Không ai mua được cách yêu của người”
Chỉ có thể bàn về cách đi, không bàn về đường đi:
“Núi yêu kiểu núi đứng im
Gió yêu kiểu gió cánh chim giang hồ
Tình yêu như một bài thơ
Ngàn năm chưa có bao giờ giống nhau”
Tình yêu là mầu sắc ở chỗ không mầu sắc. Tình yêu không mầu, không sắc ở chỗ có sắc, có mầu. Tình yêu không từ đâu đến, tình yêu cũng không đi về đâu. Tình yêu không có mở đầu, tình yêu không có kết thúc.
“Tình nào cũng chỉ dở dang
Đôi ta tạo hoá cũng đang hoàn thành
Cái gì cũng chỉ dở dang
Ngay như vũ trụ cũng đang hoàn thành”
Tình yêu không thường hằng, tình yêu vô thường luôn chuyển biến từ trạng thái này sang trạng thái khác:
“Tìm đường để đến nhà em
Đến nơi mới biết nhà em là đường
Thuyền tình cập bến yêu đương
Biết đâu bến cũng là đường mà thôi”
Con đường tình ái liên lỷ, liên hồi từ kiếp này sang kiếp khác. Như mối tình giữa Dương Quý Phi và Đường Minh Hoàng là vô tiền, khoáng hậu, từ kiếp này sang kiếp khác. Kiếp trước, Dương Quý Phi là Tuỳ Dượng Đế, Đường Minh Hoàng là Quý Phi của Dượng Đế. Quý Phi đã hy sinh để bảo vệ Dượng Đế. Kiếp sau, Dượng Đế lại thành Dương Quý Phi. Khi chạy loạn An Lộc Sơn đến đèo Mã Ngôi, để cứu Đường Minh Hoàng, trước khi chết, Quý Phi hỏi thiền sư:
- Thế có kiếp sau không?
Thiền sư đáp:
- Có.
Dương Quý Phi cầu xin trời phật để kiếp sau lại được lấy Đường Minh Hoàng. Mối tình này còn sâu sắc hơn cả Rô-mê-ô và Juy-ly-ét. Ngày nay, du khách qua đèo Mã Ngôi, ai cũng bâng khuâng nhớ tới mối tình vạn thuở:
“Thiên hương quốc sắc đâu rồi
Chỉ còn thảm cỏ chân đồi Mã Ngôi
Nghiêng thành nghiêng nước đâu rồi
Ngàn năm mây trắng nghiêng trời vẫn bay”
* * * * *
“Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà lại được yêu
Cho rất nhiều mà trả chẳng bao nhiêu”
Mang cái cân, cái thước hữu hạn của lý trí để đo cái vô hạn, cái huyền bí như vũ trụ của tình yêu thì quả là ngu ngơ của nhà thơ. Cái ngu ngơ thật đáng yêu. Yêu nhau là duyên nợ từ nhiều kiếp, trong cõi mơ hồ.
“Người yêu ta để trên cơi
Nắp vàng đậy lại để nơi giường thờ
Đêm qua ba bốn lần mơ
Chiêm bao thì thấy, dậy sờ lại không”
Ai mang cân thước để đo mơ. Tình yêu cũng như đường chân trời, nó gần ngay trước mắt mà ta càng đến càng xa, ta chỉ có thể tiệm cận tới tình yêu. Rồi còn “cho rất nhiều mà trả chẳng bao nhiêu”. Tình yêu là vừa cho vừa nhận, cho cái nhận, nhận cái cho. Cho và nhận là một thì làm sao tính được ít hay nhiều?
“Mấy khi nguyệt thực trong lòng
Mấy khi hai trái tim lồng đúng tâm
Mấy khi nhật thực toàn phần
Để mong thấy được tri âm lờ mờ”
Chỉ lờ mờ thấy được tri âm đã mãn nguyện. Tình vốn mơ hồ. Tình vượt ra sự tính toán số học “ít, nhiều” kiểu Xuân Diệu. Một vạn lạng vàng dễ kiếm, một người tri kỷ tri âm khó tìm:
“Dễ dàng đè bẹp anh hùng
Hồng nhan tri kỷ khó cùng tri âm”
Định nghĩa tình yêu của Hồ Zếnh mang cảnh giới sắc sắc không không của thiền:
“Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề”
Tình yêu thật nằm ở chỗ nửa có nửa không, ở chỗ hình như. Tình sẽ tan biến khi cụ thể hữu hình:
“Yêu nhau giây phút hình như
Cho nhau những cái còn chưa của mình
Buồn sao hình chạm vào hình
Đôi bong bóng đụng hồn mình chợt tan”
Tình yêu cũng như đôi bờ của dòng sông:
“Đôi ta như thể đôi bờ
Gặp nhau sông chẳng bao giờ thành sông
Thôi đành muôn kiếp song song
Đôi ta trả lại dòng sông cho đời”
Khi ta yêu cái gì thì mặt đối lập của nó sẽ xuất hiện. Yêu nhau lắm cắn nhau đau. Tình yêu là vô ngã, yêu và ghét đều cùng một lý do. Ta yêu nhau về cái gì sẽ ghét nhau về cái đó:
“Yêu và ghét đều giống nhau
Lý do đừng hỏi trước sau làm gì
Chỗ đến là chỗ để đi
Lý do yêu ghét không gì khác nhau”
Người yêu chỉ là màn ảnh để ta phóng chiếu tâm trí của ta. Cho nên, yêu nhau cần có bốn người: hai người là thực, hai người là mơ. Người yêu là màn ảnh để phóng chiếu giấc mơ lên:
“Yêu nhau phải có bốn người
Hai người là thực, hai người là mơ
Ghét nhau phải có bốn người
Hai người là thực đang mơ ngược chiều”
Cho nên, mọi mối tình chỉ đẹp ở phút ban đầu, ở sự dang dở:
“Mới yêu nhìn đã tri âm
Lâu dần tiếng Việt nghe nhầm tiếng tây”
Vì ta chỉ yêu giấc mơ của chính mình. Con đường dẫn tới tình yêu là có thật. Cái đích của tình yêu là giả. Nhưng nếu không có cái đích giả thì cũng không có con đường thật. Khi đến cái đích giả, tình yêu sẽ tan biến và chuyển sang nghĩa:
“Không ngồi lâu quá một nơi
Sinh lòng luyến ái khi rời nhớ thương
Khi đã hiểu lẽ vô thường
Nhìn đâu cũng chỉ thấy đường mà thôi”
Nguyễn Bính là nhà thơ trực cảm chân lý dân giã. Nguyễn Bính là nhà thơ chân quê, của hương đồng gió nội, song có lúc xuất thần lại định nghĩa tình yêu tiệm cận với thiền.
“Nhân loại dù tiến bao xa
Hôn nhau vẫn cũ như là ngày xưa
Dù người làm được nắng mưa
Thì em vẫn mới ta chưa hiểu gì
“Nhân loại dù tiến bao xa
Hôn nhau vẫn cũ như là ngày xưa
Dù người làm được nắng mưa
Thì em vẫn mới ta chưa hiểu gì”
Định nghĩa
Thái cực sinh lưỡng nghi, âm và dương làm chuyển hoá vũ trụ, chuyển hoá toàn thế giới cũng chỉ bởi đàn ông và đàn bà. Những mối tình thượng đế đủ cả ghen tuông, hờn giận trên đỉnh núi Olimpia của Zớt và Hê-len làm rung chuyển cả thiên đường và trái đất. Mối tình tay ba giữa Ngọc hoàng thượng đế cùng Thiên hậu và Tây Vương Mẫu còn để lại hình ảnh Hằng Nga và Hậu Nghệ cho muôn đời sau. Rồi đến cảnh Thiên Bồng Nguyên Soái vì quấy rối tình dục Hằng Nga trên cung quảng nên bị đày xuống hạ giới làm Trư Bát Giới mà vẫn không chừa tính hiếu sắc.
Rồi cảnh trần và tiên giao hoan nơi chốn Đào nguyên giữa Từ Thức, Lưu Nguyễn với tiên nữ còn mãi để lại trong lòng người niềm bâng khuâng luyến tiếc mơ hồ.
Ngay dưới âm ty lạnh lẽo, tối như đêm, dầy như đất, những mối tình ma quái trong “Liêu Trai Chí Dị” cũng làm rạo rực lòng người trong lúc lãng đãng mây chiều, nơi thâm sâu cùng cốc, lập loè đom đóm ma chơi:
“Một làn hơi trắng toả trong sương
Hài xanh lướt cỏ cánh thoa vương
Bồng lên thiếp nhẹ hơn làn khói
Tình nồng quên cả cõi âm dương”
Còn trong chốn cát bụi hồng trần cũng đủ cảnh giới yêu hơn cả Bồng lai tiên cảnh, hoặc chốn “Liêu Trai Chí Dị”.
“Kìa xem đôi yêu ma bươm bướm
Sống ở trên đời đã là sự điên rồ
Lại còn định bay lên tận trời xanh
Sao không ngủ đi trong sự dịu êm”
Vậy, tình yêu là gì mà ngay cả:
“Kìa cầm thú là loài động vật
Dẫu vô tri cũng biết đèo bòng
Có âm dương, có vợ chồng”
Đạo trời đất là đạo quân bình. Quân bình âm dương, quân bình lý trí và tình dục. Quân bình cửa Phật giữa Quán Thế Âm Bồ Tát, hai bên là Văn Thù Bồ Tát – lý trí và Phổ Hiền Bồ Tát – tình yêu theo đạo Phật là đồng nhất giữa lý trí và tình cảm giữa Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát. Tình yêu của Phật trải ra toàn cõi chúng sinh gọi là từ bi hỷ xả. Tình yêu của cõi giới niết bàn, của Phật không có ghét. Tình yêu của Phật là tình yêu tự đồng nhất:
“Nếu yêu những kẻ yêu nhau
Thì mình đâu có nỗi đau nhân tình
Nếu thân không nệ cái hình
Ra ngoài sự vật thì mình thành tiên”
Theo kinh Tân ước, tình yêu là do A-Đam và E-Va ăn phải quả cấm nơi địa đàng. Còn loài người cũng do trò chơi tình ái của Tạo hoá sinh ra. Và loài người lại chơi trò chơi tình ái sinh ra như Tạo hoá.
“Tạo hoá tạo ta chơi
Ta chơi trò tạo hoá
Hợp tan mây thành đá
Nhật nguyệt hoá như như”
Napoléon hỏi mỹ nhân:
- Sao nàng đẹp thế còn trang điểm làm gì?
Mỹ nhân đáp:
- Hoàng đế đã chiếm cả thế giới còn chiếm thêm mỹ nhân làm gì?
Câu hỏi này chỉ có bắc thang lên hỏi ông trời!
Sao Càn Long có 3000 cung tần mỹ nữ còn du Giang Nam chơi gái lầu xanh làm gì?
Tống Huy Tôn phải đào hầm hàng 10.000m để trốn đến lầu xanh làm tình cùng kỹ nữ Lý Sư Sư, vì sao?
Vua Tự Đức đã bão hoà tình ái vẫn mủi giải khóc lóc người tình:
“Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi”
Theo phép dùng binh của Tôn Tử, có 36 kế thì mỹ nhân kế là rẻ nhất vì có sự đồng mưu giữa trời và người.
“Bẫy tình tạo hoá lừa ta
Bị yêu lại cứ tưởng là được yêu”
Tô Châu Đát Kỷ, Dương Quý Phi, Điêu Thuyền đẹp đến đổ quán siêu đình. Vì tự cổ anh hùng đa hiếu sắc, mấy khi anh hùng vượt qua được cửa ải mỹ nhân. Loài người vốn hiếu sắc hơn hiếu đức.
Ngay cả đến các tổng thống như Bil-clin-tơn cũng từng gây ra biết bao vụ scandal tình ái làm cho khốn khổ, điêu đứng cùng cô thư ký mỹ miều.
Từ Hải “trước cờ ai dám tranh cường, dọc ngang nào biết trên đầu có ai” cũng vì tình mà chết đứng. Để đến nỗi Nguyễn Du vi quá đau xót, nên đã có lúc định nghĩa quá vội vàng và phiến diện về tình yêu: “Tu là cõi phúc, tình là dây oan”. Định nghĩa của Nguyễn Du về tình yêu mới chỉ đánh giá được một mặt của tình yêu.
Tình yêu cũng như cõi phúc, khi tình yêu xẩy ra như một năng lượng không có bản ngã bên trong, nó là sự giải thoát, là niết bàn. Nên định nghĩa “tình là dây oan” không phải là hoàn toàn đúng. Vì tình vừa là phúc, vừa là oan. Hoạ là chỗ nấp của phúc, phúc là chỗ nấp của hoạ. Hoạ hoạ, phúc phúc đều tự tình ái sinh ra. “Tình là dây oan” là một nửa của chân lý, còn nửa kia nằm ở phía đối lập. Suy lý có một chiều, hiện hữu có hai chiều.
Nguyễn Du, hiệu là Tố Như. Tố Như nghĩa là chấp nhận vạn pháp không tốt, không xấu.
“Khi vô tích, khi lâm tri
Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương”
Tố Như là tự tánh rỗng không, là chân như. Nhà văn chỉ chứng kiến chứ không có ý kiến. Tố Như là không chấp có, không chấp không, tâm bất nhị. Khi Nguyễn Du chấp vào cái có: “tu là cõi phúc, tình là dây oan”. Tố Như bị kẹt vào cái có. Tố Như thành tố hữu. Hữu nghĩa là có, nghĩa là chấp vào cái có. Như nghĩa là sắc sắc không không. Sắc tức thị không, không tức thị sắc.
“Kinh Phật lưu truyền tám vạn tư
Học hành không thiếu cũng không dư
Đến nay tất cả đều quên hết
Còn lại trong đầu một chữ như”
Tố Hữu là nhà thơ cách mạng duy lý. Ông đã có định nghĩa tình yêu tỉnh táo sâu sắc như triết học Đề-mô-crít, như thuyết cấu trúc cơ học Niutơn. Cơ học sinh cơ tâm:
“Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ và phần để em yêu
Em sung sướng thế cũng nhiều anh nhỉ
Rồi hai đứa hôn nhau hai người đồng chí”
Vì chấp vào cái hữu, không chấp vào cái vô, Tố Hữu đã tư duy theo hình nhi hạ.
Xuân Diệu cũng vậy. Xuân Diệu là nhà thơ nhập thế. Xuân Diệu coi tình yêu như một thực thể bất động, có thể chia cắt, đo đếm từng phần như toán học. Cỗ máy tình yêu có thể tháo rời ra từng bộ phận. Để rồi Xuân Diệu cũng bế tắc như các nhà khoa học là không thể tổng hợp lại được:
“Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà lại được yêu
Cho rất nhiều mà trả chẳng bao nhiêu”
Không, yêu là sự biến đổi huyền ảo giữa thân và tâm, sự biến đổi nhanh hơn cả tốc độ ánh sáng. Chưa đầy chớp mắt Lưu Nguyễn đã cùng tiên hoan lạc nơi Bồng lai tiên cảnh. Rồi cũng chỉ chớp mắt lại bần thần ngơ ngác ngay giữa quê hương.
“Lưu Nguyễn không tìm lại gặp tiên
Tìm về trần thế hoá vô duyên
Đi mà không đến là Tây trúc
Đến mà chẳng được, ấy Đào Nguyên”
Lần đầu, Lưu Nguyễn lạc đường tới thiên thai là do kỳ ngộ. Lần sau, lạc đường ngay giữa quê hương là do tự mê.
Làm sao mà Xuân Diệu cân, đo, đong, đếm được tình yêu. Vua ngủ với cung tần mỹ nữ nơi màn loan trướng huệ sướng gì hơn kẻ ăn mày ngủ với nhau nơi đầu đường só chợ.
“Rồi sẽ hiểu ít nhiều đều là đủ
Trẻ hay già vô nghĩa trước mai sau
Vua ôm ấp bao cung tần mỹ nữ
Sướng hơn gì người cùng khổ ôm nhau”
“Yêu là chết ở trong lòng một ít”. Trong cõi tâm linh thế nào là ít? Có khi 1> 1000. “Một miếng khi đói bằng gói khi no”, “bát cơm siếu mẫu đền ơn nghìn vàng”. Ít, nhiều tự tánh đều không. Yêu chung thuỷ một người không ít hơn yêu hàng nghìn người. Chỉ hôn một lần mà có khi đã mãi mãi hôn nhau.
“Một đêm quân tử nằm kề
Còn hơn thằng ngốc vỗ về quanh năm”
Còn cả đời phải sống với người mình không yêu thì có cũng bằng không:
“Con vợ khôn lấy thằng chồng dại
Như bông hoa nhài cắm bãi *** trâu”
Có lúc vì quá mê, Xuân Diệu đưa tình yêu ra mặc cả, tính toán một vấn đề không thể mua bán, mặc cả như chợ búa:
“Có thể mua được người yêu
Không ai mua được cách yêu của người”
Chỉ có thể bàn về cách đi, không bàn về đường đi:
“Núi yêu kiểu núi đứng im
Gió yêu kiểu gió cánh chim giang hồ
Tình yêu như một bài thơ
Ngàn năm chưa có bao giờ giống nhau”
Tình yêu là mầu sắc ở chỗ không mầu sắc. Tình yêu không mầu, không sắc ở chỗ có sắc, có mầu. Tình yêu không từ đâu đến, tình yêu cũng không đi về đâu. Tình yêu không có mở đầu, tình yêu không có kết thúc.
“Tình nào cũng chỉ dở dang
Đôi ta tạo hoá cũng đang hoàn thành
Cái gì cũng chỉ dở dang
Ngay như vũ trụ cũng đang hoàn thành”
Tình yêu không thường hằng, tình yêu vô thường luôn chuyển biến từ trạng thái này sang trạng thái khác:
“Tìm đường để đến nhà em
Đến nơi mới biết nhà em là đường
Thuyền tình cập bến yêu đương
Biết đâu bến cũng là đường mà thôi”
Con đường tình ái liên lỷ, liên hồi từ kiếp này sang kiếp khác. Như mối tình giữa Dương Quý Phi và Đường Minh Hoàng là vô tiền, khoáng hậu, từ kiếp này sang kiếp khác. Kiếp trước, Dương Quý Phi là Tuỳ Dượng Đế, Đường Minh Hoàng là Quý Phi của Dượng Đế. Quý Phi đã hy sinh để bảo vệ Dượng Đế. Kiếp sau, Dượng Đế lại thành Dương Quý Phi. Khi chạy loạn An Lộc Sơn đến đèo Mã Ngôi, để cứu Đường Minh Hoàng, trước khi chết, Quý Phi hỏi thiền sư:
- Thế có kiếp sau không?
Thiền sư đáp:
- Có.
Dương Quý Phi cầu xin trời phật để kiếp sau lại được lấy Đường Minh Hoàng. Mối tình này còn sâu sắc hơn cả Rô-mê-ô và Juy-ly-ét. Ngày nay, du khách qua đèo Mã Ngôi, ai cũng bâng khuâng nhớ tới mối tình vạn thuở:
“Thiên hương quốc sắc đâu rồi
Chỉ còn thảm cỏ chân đồi Mã Ngôi
Nghiêng thành nghiêng nước đâu rồi
Ngàn năm mây trắng nghiêng trời vẫn bay”
* * * * *
“Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà lại được yêu
Cho rất nhiều mà trả chẳng bao nhiêu”
Mang cái cân, cái thước hữu hạn của lý trí để đo cái vô hạn, cái huyền bí như vũ trụ của tình yêu thì quả là ngu ngơ của nhà thơ. Cái ngu ngơ thật đáng yêu. Yêu nhau là duyên nợ từ nhiều kiếp, trong cõi mơ hồ.
“Người yêu ta để trên cơi
Nắp vàng đậy lại để nơi giường thờ
Đêm qua ba bốn lần mơ
Chiêm bao thì thấy, dậy sờ lại không”
Ai mang cân thước để đo mơ. Tình yêu cũng như đường chân trời, nó gần ngay trước mắt mà ta càng đến càng xa, ta chỉ có thể tiệm cận tới tình yêu. Rồi còn “cho rất nhiều mà trả chẳng bao nhiêu”. Tình yêu là vừa cho vừa nhận, cho cái nhận, nhận cái cho. Cho và nhận là một thì làm sao tính được ít hay nhiều?
“Mấy khi nguyệt thực trong lòng
Mấy khi hai trái tim lồng đúng tâm
Mấy khi nhật thực toàn phần
Để mong thấy được tri âm lờ mờ”
Chỉ lờ mờ thấy được tri âm đã mãn nguyện. Tình vốn mơ hồ. Tình vượt ra sự tính toán số học “ít, nhiều” kiểu Xuân Diệu. Một vạn lạng vàng dễ kiếm, một người tri kỷ tri âm khó tìm:
“Dễ dàng đè bẹp anh hùng
Hồng nhan tri kỷ khó cùng tri âm”
Định nghĩa tình yêu của Hồ Zếnh mang cảnh giới sắc sắc không không của thiền:
“Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề”
Tình yêu thật nằm ở chỗ nửa có nửa không, ở chỗ hình như. Tình sẽ tan biến khi cụ thể hữu hình:
“Yêu nhau giây phút hình như
Cho nhau những cái còn chưa của mình
Buồn sao hình chạm vào hình
Đôi bong bóng đụng hồn mình chợt tan”
Tình yêu cũng như đôi bờ của dòng sông:
“Đôi ta như thể đôi bờ
Gặp nhau sông chẳng bao giờ thành sông
Thôi đành muôn kiếp song song
Đôi ta trả lại dòng sông cho đời”
Khi ta yêu cái gì thì mặt đối lập của nó sẽ xuất hiện. Yêu nhau lắm cắn nhau đau. Tình yêu là vô ngã, yêu và ghét đều cùng một lý do. Ta yêu nhau về cái gì sẽ ghét nhau về cái đó:
“Yêu và ghét đều giống nhau
Lý do đừng hỏi trước sau làm gì
Chỗ đến là chỗ để đi
Lý do yêu ghét không gì khác nhau”
Người yêu chỉ là màn ảnh để ta phóng chiếu tâm trí của ta. Cho nên, yêu nhau cần có bốn người: hai người là thực, hai người là mơ. Người yêu là màn ảnh để phóng chiếu giấc mơ lên:
“Yêu nhau phải có bốn người
Hai người là thực, hai người là mơ
Ghét nhau phải có bốn người
Hai người là thực đang mơ ngược chiều”
Cho nên, mọi mối tình chỉ đẹp ở phút ban đầu, ở sự dang dở:
“Mới yêu nhìn đã tri âm
Lâu dần tiếng Việt nghe nhầm tiếng tây”
Vì ta chỉ yêu giấc mơ của chính mình. Con đường dẫn tới tình yêu là có thật. Cái đích của tình yêu là giả. Nhưng nếu không có cái đích giả thì cũng không có con đường thật. Khi đến cái đích giả, tình yêu sẽ tan biến và chuyển sang nghĩa:
“Không ngồi lâu quá một nơi
Sinh lòng luyến ái khi rời nhớ thương
Khi đã hiểu lẽ vô thường
Nhìn đâu cũng chỉ thấy đường mà thôi”
Nguyễn Bính là nhà thơ trực cảm chân lý dân giã. Nguyễn Bính là nhà thơ chân quê, của hương đồng gió nội, song có lúc xuất thần lại định nghĩa tình yêu tiệm cận với thiền.
“Nhân loại dù tiến bao xa
Hôn nhau vẫn cũ như là ngày xưa
Dù người làm được nắng mưa
Thì em vẫn mới ta chưa hiểu gì