chelsea0199
Member
TÁC DỤNG CỦA VIỆC NUÔI CHÓ VÀ CÁCH CHỌN CHÓ TỐT THEO KINH NGHIỆM DÂN GIAN
Người viết: Bùi Hữu Đoàn sưu tầm
16/10/2009
16/10/2009
Ngay từ thời tiền sử, khi còn phải sống bằng phương thức săn bắn, hái lượm, sống trong hang động, lúc mới tìm ra lửa con người đã biết chế biến thức ăn đầu tiên bằng phương pháp nướng thịt thú rừng và sản phẩm thừa là xương động vật, đó là món khoái khẩu của chó rừng - một loài động vật có khứu giác rất phát triển, đó cũng chính là nguyên nhân khiến loài người và loài chó"tiếp cận" với nhau và cùng chung sống. Chó nhờ vào bản năng trời sinh rất thính tai, mũi ngửi có thể theo đó mà tìm ra được dấu vết đã ngữi, cũng như mắt nhìn vào ban đêm thấy rõ hơn con người và rất tỉnh ngủ, có trí thông minh và dễ huấn luyện nên con người đã sớm biết lợi dụng chó để bảo vệ và giúp đỡ cho mình. Chó lại là một giống vật có tình nghĩa nhất nếu so sánh với các con vật khác đã sống gần gũi với con người như trâu, bò, ngựa, heo v.v… đã có rất nhiều câu chuyện kể về các chú chó đã cứu chủ trong những cơn hiểm nghèo. Trong những trường hợp nguy hiểm, dù biết phải hy sinh tính mạng, chó không bao giờ bỏ chủ để thoát thân một mình, nó nhất định bảo vệ và phản công kẻ địch dù biết đó là loài dữ dằn hơn nó như beo, gấu, cọp v.v…
Và cho dù chủ có nghèo hèn, chó bị bửa đói bửa no vẫn không bao giờ tìm cao sang mà bỏ chủ. Chó thật xứng đáng với câu nói của người Tây phương “ Man’s best friend - Bạn tốt nhất của con người “. Loài người thuần hóa và nuôi chó đầu tiên chỉ với mục đích săn bắn, bảo vệ… nhờ vào khả năng tinh ranh, nhanh nhẹn, hiếu động và trung thành của loài chó. Tiếp theo, là sự thuần hóa mèo và các loài gia cầm và chim khác, chúng không chỉ được dùng với mục đích cung cấp thực phẩm, mà cao hơn, đã trở thành những người bạn, là "thú cưng" của con người.
Khi xã hội phát triển, cùng với những tiến bộ vượt bậc về khoa học công nghệ, nhất là khoa học về di truyền và chọn, tạo giống, từ những loài thú, chim ban đầu, người ta đã tạo nên rất nhiều giống mới. Ngày nay, tập đoàn chim, thú cảnh vô cùng phong phú và đa dạng và việc nuôi chim thú cảnh trong nhà đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới.
Bên cạnh tác dụng giải trí, người ta còn phát hiện ra việc nuôi chim thú cảnh còn nhiều tác dụng khác. Các nhà khoa học ở Anh cho biết, dạng ung thư máu có tên gọi non-Hodgkin's lymphoma - căn bệnh đã giết khoảng 9.000 người Anh mỗi năm, đang ngày càng gia tăng và được dự đoán sẽ phổ biến như ung thư vú hoặc ung thư phổi vào năm 2025. Khi nuôi một con vật cảnh sẽ làm giảm khả năng mắc ung thư máu đến 1/3 so với người bình thường. Những người thực hiện đề tài nghiên cứu tin rằng, vật cảnh giúp bảo vệ chủ nhân chống lại bệnh ung thư là do chúng thúc đẩy hệ miễn dịch hoạt động.
Những nghiên cứu trước khác cũng cho thấy, những trẻ em được chơi với chó mèo cũng ít phải nghỉ học vì ốm hơn bởi chúng kháng cự tốt hơn với các bệnh truyền nhiễm. Một vài công trình còn thậm chí phỏng đoán rằng các em bé đang chập chững biết đi lớn lên với chó và mèo xung quanh thì ít bị dị ứng hoặc hen suyễn những em khác.
Trong công trình mới nhất, nhóm nghiên cứu từ Đại học San Francisco và Đại học Standford ở California, Hoa Kỳ, đã nghiên cứu trên hơn 4.000 bệnh nhân để xem việc sở hữu một con vật ảnh có làm giảm nguy cơ bị ung thư máu thể non-Hodgkin's lymphoma.
Kết quả cho thấy người nào nuôi chó hoặc mèo thì có ít hơn 30% nguy cơ mắc bệnh so với người không bao giờ nuôi động vật. Càng gắn bó với con vật lâu, người trong gia đình càng ít mắc bệnh hơn.
Một nghiên cứu mới chỉ ra rằng việc nuôi một chú mèo trong nhà sẽ giúp người chủ giảm được nguy cơ bị đau tim cũng như các bệnh tim mạch khác.
Các chuyên gia trường đại học Minnesota, nghiên cứu trên 4.435 người ở độ tuổi 30 đến 75 cho thấy, nguy cơ bị đau tim ở những người có nuôi mèo giảm được 40% so với những người không hoặc chưa bao giờ nuôi mèo, và nguy cơ tử vong từ các bệnh tim mạch khác giảm được 30%, do những chú mèo có thể giảm được nguy cơ stress, buồn chán của người chủ, do đó giảm được nguy cơ mắc bệnh tim. Việc trò chuyện với thú cưng giúp chúng ta cảm thấy dễ chịu hơn, đó là một phương pháp giúp chữa khỏi được stress, nhưng rất ít tốn kém.
Hiện nay, người ta đã nhân bản vô tính thành công nhiều chú chó thông minh trên thế giới.
Ở các nước công nghiệp phát triển, hình ảnh các nguyên thủ quốc gia, các ngôi sao điện ảnh, các nhà doanh nghiệp gắn bó với thứ cưng rất phổ biến,
Thủ tướng Nga Putin nổi tiếng là người yêu động vật, đặc biệt là cô cún cưng Koni. Ông thường dẫn nó theo khắp nơi, thậm chí trong cả những buổi tiếp chính khách nước ngoài. Mới đây, Koni được gắn chiếc vòng cổ có thiết bị định vị toàn cầu giúp theo dõi mọi chuyển động của nó qua vệ tinh.
Ông chủ tịch CLB chó cảnh Hoa kỳ (AKC) nói: “Hầu hết các tổng thống của chúng ta đều nuôi chó trong Nhà Trắng. Trong những thời điểm khó khăn - như suy thoái kinh tế hay khi bị áp lực cao - những con chó cưng sẽ trở thành bầu bạn, mang niềm vui đến cho các gia đình đệ nhất ”.
Tổng thống George Washington không chỉ là cha đẻ của nước Mỹ mà còn là cha đẻ của giống chó săn cáo của Mỹ. Ông đã lai giống chó săn Pháp với giống chó săn Anh, tạo thành giống chó săn của Mỹ (American Foxhound).
Con chó Fido tai rủ, lông xù đã sống với ông Lincoln tại Springfield, Illinois suốt 5 năm trước khi ông trở thành tổng thống Mỹ.
Tổng thống thứ 29 của nước Mỹ, Warren G. Harding , không chỉ cho con chó sục yêu quý của ông một chỗ ngồi quan trọng trong các cuộc họp cấp cao mà còn tổ chức cho nó một sinh nhật linh đình tại Nhà Trắng và mời chó của hàng xóm tới thưởng thức bánh sinh nhật.
Tổng thống Coolidge và bà vợ Grace nuôi rất nhiều động vật trong Nhà Trắng. Ngoài 2 con chó giống coli màu trắng, Rob Roy và Prudence Prim, họ còn nuôi nhiều con chó khác, cùng với những con gấu trúc, một con lừa, một con linh miêu, những con chim hoàng yến, một con ngỗng và một con chim nhại.
Ngoài con chó Vua Tut béc-giê Đức, tổng thống thứ 31 của nước Mỹ Herbert Hoover còn sở hữu 2 con chó sục cáo tên là Big Ben và Sonnie, một con tên là Weejie, một con chó săn sói Ai-len tên Patrick.
Fala, con chó sục Scotland của tổng thống Franklin Roosevelt, là một trong những chú chó nổi tiếng nhất nước Mỹ, từng xuất hiện trong một bộ phim và có hẳn một… thư ký báo chí riêng để trả lời thư người hâm mộ!
Tổng thống thứ 33 của nước Mỹ Harry S. Truman từng nổi tiếng với một câu nói: “Bạn muốn một người bạn ở Washington? Hãy nuôi một con chó”. Nhưng ông lại không quan tâm lắm tới “những người bạn”, khi ông tặng lại con chó Feller - vốn là một món quà Giáng sinh năm 1947 - cho một bác sĩ của Nhà Trắng.
Các thành viên của gia đình Kennedy đều rất yêu quý chó, vì thế mà họ đã xây một khu vui chơi đặc biệt gần toà nhà Phía Tây cho bầy vật nuôi của gia đình. John F. Kennedy cũng là tổng thống đầu tiên cho đàn chó của ông chạy ra đón trực thăng tổng thống khi ông về Nhà Trắng.
Millie là con chó rất nổi tiếng thời Bush “cha” làm tổng thống. Cuốn tự truyện viết về con chó Millie của gia đình Bush “cha”, Millie's Book, do đệ nhất phu nhân Barbara Bush viết, thậm chí còn bán chạy hơn cuốn tự truyện của ông Bush “cha”.
Gia đình Clinton chỉ nhận nuôi chó 5 năm sau khi đắc cử - một con chó màu sô-cô-la - mà nhà Clinton đã đặt tên cho là Buddy. Không may, con chó bị tai nạn chết năm 2002.
Các siêu sao ở Hollywood, về khía cạnh nào đó cũng có những nhu cầu giống như những người bình thường khác: trồng cây cảnh, nuôi thú cưng... Đặc biệt, chuyện nuôi chó trở nên khá phổ biến, do điều kiện khá giả, việc nuôi chó của các siêu sao cũng khá khác lạ. Ngoài việc nuôi chó là mốt, thì cũng có sao gắn bó với thú cưng bởi tính nhân đạo. Chẳng hạn, diễn viên Penelope Cruz nuôi ba con chó đều là những con vô chủ, lang thang ngoài phố được cô mang về nhà cưu mang.
Đôi khi thú cưng còn nổi tiếng hơn cả thân chủ của mình. Chẳng hạn, con chó tên là Tinkerbell của Paris Hilton còn có website riêng. Thậm chí, sau khi có người truy cập vào trang web này, Tinkerbell còn được mời chụp ảnh riêng. Con chó của ca sĩ Mariah Carey, do tính đỏng đảnh của nó mà Carey phải tiêu tốn cả triệu USD (con chó này còn có cả vệ sĩ riêng!).
Ngoài việc được nuôi như những thú cưng, nhiều con chó còn được dùng vào những công việc rất quan trọng khác, chẳng hạn, ở thành phố Basra miền Nam Iraq, có một khách sạn tên là “Franklin”, các phòng đều gắn máy điều hoà, mỗi ngày dọn phòng hai lần. Khách vào ở đây, ngoài việc có người phục vụ ra, còn được sử dụng các bãi chạy, bể bơi suốt ngày đêm. Có điều, khách hàng không phải là các du khách hay thương nhân, mà là những chú chó của quân đội Anh đang phục vụ trên chiến trường Iraq cùng những người lính chỉ huy chúng.
Tên gọi chính thức của khách sạn này là “Đội quân khuyển chi viện chiến trường”, được đặt trong khuôn viên sân bay Basra.
Hiện tại đây có 22 con, bao gồm các loại: chó tấn công làm nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ mục tiêu, chó trinh sát phát hiện mìn và cạm bẫy bằng cách đánh hơi... đội quân này, mỗi năm đã cứu sống hàng trăm người khỏi cái chết.
Điều đáng nói là, phần lớn chúng là những con chó bị chủ nuôi ruồng rẫy ở Anh: có con bị chủ buộc dây vào cổ rồi mang thả, có con bị chủ cố tình bỏ lại trạm xăng khi dừng xe tiếp nhiên liệu, có con được phát hiện khi đã gần chết vì đói… do chủ không có khả năng nuôi dưỡng hoặc không muốn nuôi nữa.
Chỉ cần trả 5 bảng là quân đội Anh có thể nhận được 1 “tân binh” từ trại thu dung chó vô thừa nhận. Nhưng để biến nó trở thành một chiến binh thiện chiến là cả một quá trình huấn luyện kỳ công và khoa học, mất khoảng 20 ngàn bảng.
Đối với những chú quân khuyển này thì việc tuần tra, bảo vệ khu căn cứ quân Anh ở Basra là nhiệm vụ rất quan trọng. Tất cả quân khuyển đều được chọn lựa và huấn luyện từ khi 1 đến 3 tuổi và phải loại ngũ khi 8 - 9 tuổi. Nhưng điều bất hạnh là dù có lập công lao lớn đến đâu thì sau khi nghỉ hưu, những chú chó tấn công này cũng không được yên hưởng tuổi già.
Thường chúng bị giết chết bằng thuốc độc sau khi rời khỏi quân ngũ, do có thể gây nguy hiểm cho dân chúng. Trái lại, những chú chó trinh sát thì có thể sống hết đời với người HLV hoặc trong các trại chó.
Chiến sĩ Buster (springer spaniel) được tuyên dương công trạng vì đã phát hiện rất nhiều chất nổ có thể gây sát thương. Buster là con chó đánh hơi phát hiện được nhiều chất nổ chôn dấu nhất ở Iraq và đã được nhận huy chương Dickin Medal của quân đội Anh.
Ngày nay, ngoài các hình thức khủng bố theo kiểu cũ, các tổ chức khủng bố quốc tế còn có khả năng sử dụng những phương tiện hiện đại hơn như vũ khí sinh học, hóa học và cả bom bẩn. Để đối phó với những thủ đoạn tinh vi của bọn chúng, tại Mỹ người ta đã thành lập hẳn một trung tâm huấn luyện những chú chó giống đặc biệt để tham gia chống khủng bố.
Trong năm 2007, đã có đến 350 chú chó giống malinois của Bỉ và bécgiê (berger) của Đức, tham gia một chương trình huấn luyện kéo dài 6 tháng tại Trung tâm Huấn luyện chó chống khủng bố, đặt tại Căn cứ không quân Lackland ở thành phố San Antonio, bang Texas, Mỹ. Đây cũng là cơ sở duy nhất trên đất Mỹ huấn luyện chó nghiệp vụ cho các quân chủng hải, lục, không quân và thủy quân lục chiến Mỹ.
Những chú chó học viên ở đây được huấn luyện tuần tra, phát hiện chất nổ và các chất sinh hóa, sẵn sàng tấn công khi có lệnh, phòng thủ cho bản thân chúng hay bảo vệ người trông coi. Sau khóa huấn luyện, phần lớn chúng đều được chuyển đến nhiều căn cứ Mỹ trên khắp thế giới để thi hành nhiệm vụ.
Trong cuộc chiến tại Iraq và Afghanistan hiện nay, Mỹ đã sử dụng chó được huấn luyện nghiệp vụ chống khủng bố tại Trung tâm Lackland để phát hiện bom, mìn, chất nổ.
Theo Thiếu tá Frank Schaddelee, người chỉ huy Đội huấn luyện 341, chuyên cung cấp và huấn luyện chó chống khủng bố tại Trung tâm Lackland, loại chó dùng phát hiện chất nổ và các chất khác không tham gia trực tiếp vào các trận đánh, chúng được dành để thi hành nhiệm vụ tại các hội nghị có sự tham gia của các nguyên thủ quốc gia, kiểm tra các chuyến bay hay các địa điểm nghi vấn trở thành mục tiêu phá hoại bởi bọn khủng bố.
Thông thường, độ chính xác trong khả năng phát hiện chất nổ và các chất phá hoại khác của chúng đạt đến 98%. Tùy vào nhiệm vụ và điều kiện khí hậu, môi trường, chúng có thể làm việc từ 12 đến 18 giờ mỗi ngày.
Phần lớn những con chó giống malinois và bécgiê được mua từ châu Âu. Bốn lần mỗi năm, các nhân viên ở Trung tâm Lackland vượt đại dương, tiếp cận hàng trăm con chó từ 12 đến 36 tháng tuổi và chọn mua khoảng 1/3 trong số đó.
Theo Thiếu tá Schaddelee, mỗi con chó trị giá khoảng 3.100 USD, tuy nhiên sau khi huấn luyện xong, theo các nhà sinh vật học, loài chó sử dụng đến khứu giác nhiều như con người sử dụng thị giác. Điều này dễ hiểu vì trong lúc mũi người chỉ có từ 5 đến 15 triệu tế bào thụ cảm với mùi vị thì mũi loài chó, số tế bào thụ cảm loại này lên đến 125-250 triệu, tức là gấp 25 lần.
Theo Donald Perrine, bác sĩ thú y làm việc tại Trung tâm Lackland, ngoài ưu thế về số lượng tế bào thụ cảm kể trên, trung khu khứu giác trong não bộ của loài chó cũng lớn gấp 4 lần khu vực khứu giác ở não người. Nhờ vào những đặc tính hiếm có này mà loài chó có cái mũi nhạy đến nỗi có thể phát hiện ra những mùi nhẹ nhất mà mũi người không ghi nhận được.
Tại Trung tâm Lackland, chó còn được huấn luyện phát hiện mìn nhằm nâng cao và mở rộng kỹ năng phát hiện các loại vũ khí khủng bố.
Kể từ năm 1939, những "chiến binh" 4 chân này đã là cộng tác viên tích cực và trung thành của con người. Trong những cuộc chiến tranh có quân đội Mỹ tham dự gần đây, chúng tham gia vào việc cứu mạng sống của hơn 10.000 binh lính Mỹ.
Hiện nay, khi khả năng phát hiện vũ khí sinh hóa của chúng đã trở nên thuần thục, sự góp phần hạn chế thiệt hại cho con người trước nạn khủng bố ngày càng tinh vi sẽ càng có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, về mặt nhân đạo, xem ra con người đối xử với chúng không tương xứng với những gì mà chúng đã đóng góp. Từ nhiều thập niên qua, những chú chó tham gia đội quân "điều tra" già nua (từ 10 tuổi trở lên) đều bị áp dụng kỹ thuật “cái chết không đau”, sau khi chúng không còn làm lợi cho con người.
Mãi đến năm 2002, mới có những ứng xử “văn minh” hơn được dành cho chúng, đó là việc ban hành đạo luật cho phép những "chú" già nua được các cơ quan bảo vệ pháp luật, những người trông coi hay bất cứ ai có khả năng chăm sóc, được phép đưa chúng về nuôi để chúng có được những ngày cuối đời yên ấm.