• Chào mừng bạn Khách đến với diễn đàn, chúc bạn vui vẻ sinh hoạt cùng cộng đồng Vietpet.
    Diễn đàn đã có sẵn cơ sở dữ liệu tương đối lớn về các vấn đề thường gặp như thú y, huấn luyện, chăm sóc thú cưng..., bạn Khách vui lòng tìm đọc kỹ trước khi gửi câu hỏi.
    Lưu ý: Diễn đàn không chấp nhận ngôn ngữ chat, bài viết không có nội dung ( bài spam).

Con chó có chữ - Truyện ngắn của Hoàng Trọng Dũng

“Cẩu lục kê tam” - con chó nhà ông Hội một mực phản đối trí tuệ dân gian, bằng chứng là đã mười năm có lẻ nhưng nó vẫn cường tráng. Thảng hoặc có cô chó cái chạy ngang qua, ngay lập tức Tít - vâng, con chó tên là Tít - rít ăng ẳng, tai dựng đứng, chân cào cào chực phóng lên chạy.
Minh họa: Tuấn Anh


Những lúc ấy cô Hòa con gái ông Hội - vâng, nếu cô Hòa có mặt, vỗ vỗ vào lưng con chó, nựng “Muốn làm bố hả?”. Không biết tiếng người nhưng chắc chắn Tít hiểu điều cô chủ định nói. Tít tiếp tục rên rỉ, ngước đôi mắt ướt đầy tâm trạng van vỉ, hy vọng cánh cửa sắt sẽ được mở ra. “Bố gì cái thứ chúng mày! Chỉ được cái…” - dầu cô Hòa không nói hết lời, nhưng Tít vẫn cảm nhận được ý tứ của cô, nó cụp tai, mắt nhìn xuống.

1 Trong các giống vật nuôi trong nhà, chó đực là giống hờ hững với con nhất. Đa thê đa tình như anh gà trống thì thỉnh thoảng vẫn cục cục bên đàn gà con cùng cô gà mái, khi tha hạt thóc lúc bới con giun. Còn cái giống chó đực, cùng lắm phóng tới bên ổ hít hà vài cái xong chạy biến.

Ngày ông Hội xin Tít về nó mới mở mắt được vài ngày. Ông Hội thả nó xuống đất, bảo “Lưỡi đốm, chân có khoeo, khôn lắm đấy!”. Đáp lời ông Hội, con chó tè ngay trên nền gạch bông, miệng rít ăng ẳng, loạng choạng dò từng bước và rồi áp vào chân cô Hòa. Có thể, bằng trực giác, nó biết cô Hòa là người sẽ thương nó nhất.

Cô Hòa ôm con chó, vỗ nhẹ vào lưng nó. Lập tức cái đầu bé tí xíu rúc vào cánh tay cô Hòa, tiếng ăng ẳng nhỏ dần. Cô Hòa pha sữa cho con chó. Tới bữa cơm, cả nhà chưa ai cầm đũa, con chó đã có phần. Tối, cô Hòa lót tấm thảm cho con chó ngủ trong nhà.

Bà Điệp mẹ cô Hòa bảo: “Coi chừng cưng lắm nó hư”. Ông Hội nhìn cô Hòa rồi nhìn con chó, nhưng không nói gì. Tính ông Hội vốn thế, nói ít, không mấy khi bày tỏ thái độ bằng lời. Ngày còn đi làm, mỗi khi ông mở miệng, cũng chỉ vài câu thôi. Với các đồng nghiệp, nếu không đồng tình với ai ông cũng chỉ im lặng.

Ông Hội thuyết phục người khác bằng thái độ, kết quả của công việc, bằng cách sống của mình. Mấy chục năm hết lái đầu máy hơi nước tới lái đầu máy diesel, ông không hề để xảy ra một sự cố. Nghe như chẳng có gì đặc biệt nhưng vào thời gian mà phụ tùng vật tư hầu như không có, máy móc rệu rã đến mức đúng ra phải thanh lý, thành tích của ông Hội không mấy người có khả năng đạt được.

Không những thế, khi đồng nghiệp người này bán dầu người kia chở hàng lậu thì ông Hội không một lần vướng vào cái vòng bất chính đầy cám dỗ ấy. Dù chỉ là công nhân, nhưng ông Hội vẫn thường được mời tham gia hội đồng kỷ luật của xí nghiệp khi có người bị đưa ra xét xử.

Người tinh ý sẽ nhận ra ông Hội không bao giờ quy kết người phạm lỗi. Ông chỉ phân tích cặn kẽ sự việc với thái độ ôn hòa, với cách nói ngắn gọn, lập luận chính xác không thể bác bỏ. Không phê bình con người, chỉ phê bình sự việc, phải hiểu nhân tình thế thái lắm, tinh tế lắm, thương yêu con người lắm mới ứng xử được như ông Hội.

Nhưng khuyết điểm của ông Hội có lẽ là ông đã đánh đồng người khác với mình.

Lần đó phiên họp hội đồng kỷ luật do đích thân giám đốc xuất thân cũng là một lái máy, chủ trì. Hầu hết ý kiến không đồng tình với quy kết của giám đốc. Cuộc họp kéo dài hơn thường lệ và khó đưa ra kết luận. Ông giám đốc tính tình nóng nảy nổi cơn lôi đình, đập bàn la hét, tuôn ra khỏi miệng những lời mạt sát thậm tệ.

Các thành viên dự họp cúi mặt, ông Hội nhìn chăm chăm vào một chỗ trên bàn. Rồi ông đứng dậy, xin phép ra ngoài. Ngày hôm sau ông lên phòng tổ chức, lẳng lặng đặt cái đơn xin nghỉ hưu non lên bàn ông trưởng phòng. Mặc ai khuyên nhủ, ông Hội vẫn kiên định. Đơn giản ông không chấp nhận sự xúc phạm đối với một con người. Thế là ông nghỉ, không một giây do dự.

Cầm cái sổ lương hưu non, ông Hội liếc qua một cái xong đưa cho vợ. Và cũng từ đấy, ông không bao giờ hỏi những đồng tiền tháng tháng bà Điệp lĩnh về, không một lời thắc mắc tại sao trong túi mình bao giờ cũng có ít tiền - là do bà Điệp hay cô Hòa nhét vào. Sáng sáng, sau một cuốc đi bộ cho giãn gân cốt, ông Hội lọc cọc đạp xe vác cần đi câu. Ngày ao hồ ruộng đồng còn nhiều, ông chuyên câu cá lóc với chiếc cần câu quăng, không hôm nào không có một hai con đem về.

Đến khi ao hồ bị san lấp làm nền, ruộng đồng thành những khu dân cư, ông chuyển qua câu cá biển, nhiều nhất vẫn là cá mú. Nếu có một ngày thời tiết không xấu lắm mà ông Hội không đi câu, hẳn đâu đó trong thành phố có một giải quần vợt hay bóng chuyền.

Ông Hội là khán giả trung thành nhất của hai môn thể thao này. Ông xem tất cả các trận đấu, thỉnh thoảng tắc lưỡi, thỉnh thoảng vỗ tay, nhưng không bình luận, không chê người này khen người kia. Nếu không làm hai việc đi câu và xem thi đấu bóng, chắc chắn là ông Hội tới một đám giỗ, đám cưới hay mừng nhà mới ai đó.

Mỗi năm, ông Hội mua một cuốn lịch bàn, ghi hết những ngày giỗ chạp của người thân, người quen lên đấy. Đúng ngày, cứ theo lịch ông tới thắp hương, không đợi mời, nhưng hiếm khi ở lại dự cỗ. Người ta bảo nhất ông Hội - sống được theo ý mình, ngày ngày làm bạn với cái cần câu, với mặt nước, với gió, với bầy cá trong làn nước xanh thẳm, không vướng vào sự đời đầy chuyện mệt mỏi...

***

Chó là giống ranh mãnh. Cả ngày, khi ông Hội vắng nhà, con Tít tha hồ đùa nghịch, gặm chân bàn chân ghế. Nhưng chiều tối, nhác thấy bóng ông Hội, sau khi đã mừng rỡ ôm chân ông, Tít nằm dài chống cằm lên hai chân trước, vẻ ngoan ngoãn nghiêm túc. Thỉnh thoảng nó liếc những cái chân bàn chân ghế nham nhở, rồi liếc ông Hội xem ông có phát hiện ra không. Nhưng khi ông Hội đến bàn pha ấm trà, lập tức nó ngó lơ chỗ khác, như thể mình chẳng liên quan tới bất cứ việc gì trong ngôi nhà này.

Một lần như thế, ông Hội gọi nó tới. Không thể không tới, nhưng linh cảm điều chẳng lành, Tít cụp mắt xuống. Ông Hội lấy tay bệ cằm con chó, bắt nó nhìn vào cái chân bàn nham nhở, bảo “Thôi nhé!”. Rồi ông lôi từ trong túi xắc ra một hộp xương giả, loại bày bán ở quầy thức ăn dành cho súc vật trong siêu thị, lấy một cái đưa lên mõm con chó, bảo “Thứ này ngon hơn chân bàn chân ghế, nghe chưa!”. Nhìn cục xương y như thật, Tít hết hít mũi tới nhìn ông chủ. Rồi nó hớn hở tha cục xương giả tới góc nhà đùa nghịch.

Từ đó những cái chân bàn chân ghế hết bị phá hoại. Ông Hội bảo cô Hòa “con chó ngứa răng, không thể cấm nó gặm. Vậy thì hãy cho nó gặm theo ý nó”.

Cô Hòa lĩnh hội ý tứ của cha, nhưng không sao bắt con Tít vâng lời. Chẳng những thế, nó luôn làm ngược ý cô. Bà Điệp cười bảo đến con chó cũng lờn mặt thì con gái của mẹ sau này sẽ thế nào đây.

Thật lòng bà Điệp lo lắng cho tương lai của cô Hòa. Con gái bà xinh xắn, nhưng quá hiền lành, đến mức nhẫn nhục. Bữa cơm, lấy vội vàng một ít thức ăn, cô Hòa cúi mặt vào bát, ăn đến miếng cuối cùng mới lại ngẩng lên. Quan sát con gái, bà nghĩ thế là khổ. Ăn miếng cơm mà cứ cúi mặt vào bát là thân phận đầy tớ, hoặc chí ít cũng là người đàn bà cơ cực.

Bà mắng, cô Hòa toét miệng cười, bảo mặc kệ con. Cô Hòa chưa bao giờ tức giận. Cô như ngọn gió nồm giữa trưa hè, cứ thản nhiên thổi mát vậy thôi.

Hình như con Tít cũng biết thế, nên nó không sợ cô. Một bữa tắm cho con chó, cô Hòa bỗng reo lên “Ơ này, con chó có chữ!”. Bà Điệp đứng ở bếp nhìn cô con gái với ánh mắt vừa hoài nghi vừa diễu cợt. Cô Hòa bồng con chó vào chỗ bà Điệp, chỉ vào trán nó.

Đúng là trên nền màu lông vàng nhạt có những vạch ngang dọc màu đen, trông hao hao chữ nho, nhưng khó lòng bảo đó là chữ gì. Bà Điệp giễu cợt “Thế nó học lớp mấy rồi?”. Cô Hòa nũng nịu bảo mẹ sao cứ hay châm chọc. Nhưng bà Điệp không buông tha “Thế cô bảo đấy là chữ gì?”. Chịu, cô Hòa không biết chữ Hán nên không thể trả lời, nhưng cô tin những cái vạch trên trán con chó ít ra cũng là dấu hiệu tốt lành. Vừa hay có ông thầy chùa vốn là chỗ quen biết ghé chơi nghe chuyện, bảo cô Hòa cho ông xem con chó.

Nhìn con Tít từ ngoài sân thủng thẳng đi vào, ông thầy chùa bảo người có vài ba loại, chó cũng dăm bảy loài. Người có kẻ tiểu nhân có người quân tử, chó có con cắn trộm có con rất tình nghĩa với chủ. Ông thầy chùa xoa đầu con Tít, nhìn cô Hòa đang hồi hộp nuốt từng lời của ông, thong thả bảo trên trán con chó là ba chữ khẩu.

Thấy cô Hòa ngơ ngác, ông thầy chùa tủm tỉm cười, giải thích: “Khẩu là miệng, những ba cái miệng là con chó nhiều chuyện, sủa nhiều lắm đây!”. Cô Hòa bán tín bán nghi, phụng phịu hết nhìn ông thầy chùa tới nhìn bà Điệp, bảo: “Nhưng thưa thầy, nó đâu có sủa nhiều ạ!”. Ông thầy chùa vẫn nụ cười trên môi, nhưng hướng mắt sang bà Điệp: “Bây giờ thì chưa, nhưng sau này… Con coi kỹ đi, có phải tới ba cái miệng không?”. Nhưng rồi chừng như e ngại nỗi thất vọng đang tràn trề trong mắt cô Hòa, ông bỗng nghiêm giọng: “Ta đùa đấy! Một chữ khẩu ở trên, hai chữ khẩu ở dưới là chữ phẩm, tức phẩm giá. Hồi nãy nhìn dáng đi của con chó, ta đã thấy là nó đàng hoàng”. Rồi ông thầy chùa nói thêm: “Bản thân con chó đã đành, nhưng tính cách của nó còn phụ thuộc vào chủ, như con nít phụ thuộc vào sự giáo dục của gia đình vậy. Người ta vẫn nói chỉ cần nhìn con chó, đã có thể biết chủ của nó là người thế nào!”.

***

2Trẻ con hay nghịch ngợm, thì chó con cũng hay đùa giỡn, lắm khi quá trớn, lắm khi quá mù ra mưa. Thoạt đầu Tít đùa với con mèo tam thể, theo bản năng. Nhưng rồi nó tiến tới trò bắt nạt, chén hết thức ăn của mèo trước khi quay lại tô của mình. Sợ bị bắt gặp, lần sau Tít láu cá tha con cá nướng của mèo giấu vào một góc, đợi khi vắng vẻ mới lôi ra đánh chén.

Của ăn vụng bao giờ cũng ngon. Tít chăm chỉ thực hiện hành vi trộm cắp của mình. Cô Hòa không để ý, nhưng ông Hội khi thấy con mèo ngày càng gầy, bụng teo tóp thì hiểu ngay sự việc. Một bữa ông Hội bỏ buổi câu, kín đáo rình và bắt quả tang Tít mắt trước mắt sau xông qua dĩa thức ăn của mèo. Con mèo kêu meo meo nhưng biết thân phận, không chống cự.

Ông Hội lập tức bước ra, nắm tai Tít kéo nó lại, lấy luôn tô thức ăn của nó đem đổ vào thùng nước gạo. Rồi ông ngồi canh, kiên nhẫn đợi cho con mèo ăn xong phần của mình còn Tít thì bị phạt, nhịn luôn bữa đó. Một hai lần, Tít tiếp thu bài học nhanh đến không ngờ, dầu có thèm đến mấy cũng không dám lặp lại trò ăn cắp tinh quái. Nhưng sự đời “ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt”, Tít không dễ dàng từ bỏ thói hư đem lại cho nó sự sung sướng.

Không dám làm bậy ở nhà, Tít để mắt sang nhà hàng xóm. Một bữa chạng vạng, ông Hội nghe thấy hàng xóm kêu mất gà. Ông nhìn Tít nằm xoài trước cửa lòng đầy nghi ngại. Đến khi hàng xóm khẳng định bầy gà lên chuồng vẫn thiếu một con, ông Hội càng sốt ruột. Ông lục lọi và tìm thấy ngay xác con gà mái tơ bị cắn đứt cổ giấu sau sọt rác, cạnh gốc lộc vừng. Không chút ngần ngừ, ông Hội ra phố mua một sợi dây xích về quàng vào cổ Tít, rồi một tay cầm xác con gà một tay dắt Tít sang hàng xóm. Ông Hội xin lỗi và xin đền tiền con gà. Bà hàng xóm chấp nhận lời xin lỗi nhưng từ chối món tiền của ông Hội.

Tít theo dõi cuộc đối thoại từ tốn của hai con người, mắt nhìn vào con gà mái tơ đã chết. Nó có vẻ lờ mờ hiểu ra hành vi của nó thực sự nghiêm trọng. Và tương ứng với sự nghiêm trọng đã gây ra, từ đó cổ Tít có một sợi dây xích, cánh cửa sắt luôn đóng. Những tháng ngày tự do chấm dứt, trừ những lúc ông Hội dắt nó ra ngoài vào buổi sáng.

Sau khi dạo bộ một vòng cùng con chó, ông Hội ghé quán bún đầu ngõ mua cho Tít một ổ bánh mì. Về đến nhà, ông Hội bỏ chiếc bánh mì vào tô cho Tít gặm. Mùi bánh mì vừa ra lò thơm phức. Tít khoan khoái gặm từng miếng nhỏ, nhìn con mèo hau háu cặp mắt, miệng không ngừng meo meo thèm thuồng.

***

3 Tít lớn nhanh trông thấy. Chỉ chừng hơn một năm, qua một lần thay lông nó đã rất chững chạc. Trên lớp lông vàng rực, chữ phẩm tuy mờ nhưng vẫn có thể nhìn thấy. Ông Hội tháo dây xích, nhưng vẫn đóng cổng, hàm ý một sự tự do giới hạn. Thảng hoặc có khách tới nhà, Tít sủa cầm chừng, báo cho chủ biết, vì chỉ cần khi bà Điệp hay cô Hòa đánh tiếng là nó lập tức thôi sủa.

Khách ngồi chơi, Tít nằm ngay cửa ra vào, mắt hướng về phía khách ra ý trông chừng. Chỉ cần vị khách cầm một thứ gì nó, như cái quạt giấy trong một ngày hè cúp điện, Tít lập tức chồm lên cảnh giác. Trường hợp khách đứng lên cáo từ nhưng tay vẫn vô tình cầm cây quạt thì thể nào Tít cũng sủa một tiếng rồi tiến tới cắn chặt ống quần của khách kéo lại!

Chỉ cần thế, cả khách lẫn chủ đều hiểu. Vị khách tất nhiên bỏ cây quạt giấy xuống bàn và xoa đầu Tít khen ngợi. Cách xử lý sự việc của Tít có vẻ na ná cách xử lý của ông Hội đối với chính bản thân nó, không nương tay cũng chẳng quá tay.

Ngày qua tháng lại, những cuộc đi bộ, chiếc bánh mì buổi sáng, hai tô cơm trưa và chiều, mưa và nắng. Hôm nào trời mưa không ra ngoài được, ông Hội đưa tiền cho con chó, để nó tự đi mua bánh mì.

Ngậm tờ tiền giấy trên mõm, thoắt cái đã thấy Tít về. Nhưng Tít không ăn ngay, nó đợi hoặc ông Hội hoặc cô Hòa đem tô tới. Sau khi đặt chiếc bánh mì vào tô, nó mới tha ra, dùng một chân chặn lên ổ bánh mì và bắt đầu gặm. Cô Hòa bảo Tít quá máy móc, nhưng đúng là nó quen ăn có tô rồi, không làm khác được.

Một bữa ông Hội dắt Tít đi bộ, lúc về qua hàng bún mới biết mình quên đem tiền, đành phải mua chịu ổ bánh mì cho nó. Lúc về đến nhà Tít liếm mép nhưng không hề động đến bánh. Ông Hội ngạc nhiên, tưởng con chó ốm. Nhưng không, nó cào cào chân, sủa ủng oẳng vài tiếng như đang phân vân điều gì đó, hai mắt đóng đinh vào túi áo ngực ông. Phải một lúc ông Hội mới hiểu ra sự việc. Là Tít muốn xin tiền ông để trả bà hàng bánh. Và rồi, sau khi ngậm tờ tiền phóng như bay ra hoàn thành việc mua bán, trở về nhà Tít mới khoái trá hít hà ổ bánh.

Người ta bảo có những con chó biết đi mua báo, đi chợ cho chủ. Có con chó khi thấy chủ ngã ngất biết cách gọi người đến cứu. Có con chó khi xảy ra hỏa hoạn biết phá cửa lôi em bé ra ngoài… Con Tít nhà ông Hội không biết đi chợ, không biết mua báo, không biết báo động, chưa một lần cứu ai, nhưng Tít biết mua bánh mì thì phải trả tiền.

Còn một điều nữa cũng phải nói rõ, Tít là một con chó ta, một con chó ta rất bình thường vẫn luôn gặp đâu đó trên đường.

H.T.D
 

nh0kkUn

Member
Cái này hôm kia đọc trên báo thanh niên...
:)....
Bài này thật là hay :)...
tks chủ topic đã đăng lên vietpet nhé :)
 
Top