• Chào mừng bạn Khách đến với diễn đàn, chúc bạn vui vẻ sinh hoạt cùng cộng đồng Vietpet.
    Diễn đàn đã có sẵn cơ sở dữ liệu tương đối lớn về các vấn đề thường gặp như thú y, huấn luyện, chăm sóc thú cưng..., bạn Khách vui lòng tìm đọc kỹ trước khi gửi câu hỏi.
    Lưu ý: Diễn đàn không chấp nhận ngôn ngữ chat, bài viết không có nội dung ( bài spam).

Câu chuyện về những con chó.-sưu tầm

tran minh

Member
Câu chuyện về những con chó.
Mùa đông năm đó con chó cái nọ đẻ được năm chú cún con.Con nào cũng đáng yêu.Mắt to tròn đen láy, bốn chân ngắn cũn cỡn và cái đuôi luôn ngoái loạn trời mỗi khi có ai đi qua.Khi mới sinh mắt chúng nhắm díp lại mà mãi một tuần sau mới dần dần mở ra.Khi mắt mới mở được nhìn thấy cuộc đời đối với bọn chó con quả thật là một điều tuyệt diệu mà chẳng có gì sánh bằng ngoại trừ nhà máy cung cấp sữa mẹ.Con chó mẹ lần đầu nuôi con hết sức vụng về nhưng tràn đầy tình thương yêu.Nó để bọn chó con bú no căng sữa khiến bầu vú chảy xệ xuống kéo theo cả bộ da khiến những dẻ xương sườn lộ ra sự kiệt quệ.Mùa đông ngày một giá buốt hơn vậy mà đã hơn gần hai tháng tuổi mà bọn chó con vẫn được mẹ cho bú.Ngày ngày con chó mẹ lang thang trên đường phố sục sạo các thùng rác, quanh quẩn bên những ngôi nhà chầu chực để mong được miếng ăn.Lúc trước khi nó còn nhanh nhẹn chạy nhảy biết làm trò vui cho người ta thì một vài miếng thịt hay bát cơm thừa chẳng thành vấn đề với những con người quanh quanh cái thành phố này.Nhưng giờ đây với tấm da bọc xương cho dù nó cố gắng chạy nhảy nịnh bợ, vẫy đuôi, bắt tay,liếm giày đến mấy cũng chỉ nhận được sự ghê sợ và xa lánh không hơn.Thân hình tàn tạ của nó luôn khiến cho các bà mẹ mang lũ nhỏ tránh xa còn đàn ông thì tìm cách doạ đánh nó để cho nó không dám lại gần.
Thức ăn ngày càng ít đi nhưng bọn chó con vẫn bú không ngừng.Sữa ngày càng ít đi hơn nữa lại nhạt và chua loét hệt như cái dạ dày trống rỗng của bầy chó.
Lũ chó con bắt đầu lớn dần nhưng tưởng như chúng sẽ ra khỏi cái thùng tôn rỗng chỏng chơ trong con hẻm đó mà tự kiếm thức ăn thì ngược lại ngày ngày chúng đánh nhau chơi đùa và đợi mẹ về cho bú.Đêm đêm chúng càu nhàu cáu kỉnh vì đói.Sáng sơm ra lại vội vã dục mẹ lên đường kiếm ăn.
Mùa đông ngày càng lạnh hơn vào những tháng cuối cùng thức ăn cũng hiếm hơn.Có những ngày mưa con chó mẹ nằm mê đi trong cái tổ dơ dáy không cất nổi thân mình mặc kệ lũ chó con kêu khóc, kêu đói.
Trong cái sự u tối sộc mùi lông và nước đái chó đó cuối cùng cũng có những con chó quyết định rời tổ dù cho chính chúng cũng không tự mình hiểu nổi cái đó là sai hay đúng.
Con chó lớn được sinh ra đầu tiên có một tai màu đen và một tai màu trắng ngà cùng con út toàn thân đen nhanh muốn rời cái ổ thân thương nơi chúng sinh ra để tự ra ngoài kiếm ăn.
Nhưng thật đáng ngạc nhiên khi chúng ngấp nghé bước chân định rời khỏi con hẻm nơi cái thùng tôn rỗng mà chó mẹ chọn làm nơi chúng ra đời thì con mẹ gần như lồng lên.Bằng tất cả sức lực nó lôi lệt xệt hai con chó con vứt vào trong tổ.
Tràng sủa đầy giận dữ tru lên trong ánh mờ nhạt vàng vọt của ngọn đèn đường.Đôi mắt long sòng sọc nhìn hai con chó con.Con chó nhỏ màu đen nhánh sợ hãi nép vào hốc tổ chỉ len lén nhìn ra.Con chó lớn với đôi tai màu đen trắng cúi đầu xuống khẽ rên lên ư ử trong cổ họng.
Chó mẹ cắn mạnh vào cổ nó và dúi nó vào vách thùng đôi mắt và hàm răng nhe ra giận dữ đầy đe doạ.
Nó bước ra khỏi cái ổ.Đôi vai chi trước trùng xuống mệt mỏi và kiệt quệ.con chó nằm lặng đi phía bên ngoài cái thùng đôi mắt buồn rười rượi dõi ra phía ánh đèn ngoài con ngõ.
Bên trong ổ lũ chó con rấm rích rên lên trong giấc mơ xa vời.
Trời đen đặc quánh như nhựa đường cứ như chực chờ đổ xuống đầu chúng sinh bất cứ tai ương nào mà ông ta vô tình nghĩ ra.
Sáng hôm sau con chó mẹ lại lao vào thành phố, liều lĩnh tranh cướp giành giật mang về cho lũ con một cái đùi lợn cùng một vết dao phay trên lưng mà chỉ để lại một mẩu đuôi trong thành phố cùng vô vàn lời chửi rủa của lão hàng thịt.
Bầy chó được một bữa no và với lũ chó con đấy là lần đầu chúng được mẹ cho ăn một cái gì khác ngoài sữa.
Con chó mẹ để lũ con ăn xong mới mang khúc xương ra gặm nhằn từng chút những mẩu thịt dính lại ở các khớp.
Dù đau đớn nhưng nó vô cùng thoả mãn bởi nó biết bọn chó con vẫn là của nó.Hoàn toàn thuộc về nó.
Nhưng từ bữa ăn đó ý muốn được ăn càng cháy mạnh hơn bên trong lũ chó con đặc biệt là con chó lớn tai trắng đen và con chó nhỏ lông đen tuyền.
Chúng muốn được tự mình kiếm lấy cái ăn.
Một ngày khi con chó mẹ vào thành phố hai con chó con tinh quái cũng phá bỏ luật lệ nhảy ra khỏi ổ đi thẳng về phía con hẻm .
Lũ còn lại chạy nhặng lên rồi sủa inh ỏi.Chúng không dám bước qua ranh giới của cái ổ chó những cũng lại rất muốn được ăn.Một con chó xám cắn vào đuôi con đen lôi nó lại nhưng ngay lập tức con chó lớn chồm lên người nó đạp ngã rồi cắn vào chân nó.Con tai đen trắng gừ lên một tiếng đầy đe doạ rồi nhe nanh về phía những con còn lại.Lũ chó kia hướng về nó mà sủa nhặng xị những cũng chẳng con nào dám đi theo hay vượt qua con hẻm để đi theo.
Cuối chiều trước khi con mẹ về hai con chó con quay lại với vài mẩu xúc xích và cả một con gà.Chẳng biết bằng cách nào mà chúng chôm được nhưng có lẽ là bản năng mách bảo hoặc tác giả muốn thế.
Con chó đen đẩy con gà và xúc xích về phía 3 con chó kia vẫy vẫy đuôi.Những con cho đó đã hết sủa, chúng vục mồm vào ăn lấy ăn để.Và trước khi con mẹ về đến thì cả đám thức ăn đó không thiếu miếng nào đã vào gọn bụng chúng.
Con chó mẹ mạng được một chút thức ăn về và ngạc nhiên khi lũ con nó ăn rất ít nhưng rồi cơn đói đã khiến xui nó ăn hết phần mà bọn chó nhỏ ăn thừa.
Hôm thứ hai hai con chó con chạy bán sống bán chết về tổ dưới tràng cười ăng ẳng của lũ còn lại.Những tưởng chúng sẽ chẳng còn dám ra khỏi ổ nữa nhưng vài ngày sau chúng lại lên đường.Khi kiếm được đồ ăn chúng mang về chia cho lũ còn lại còn những khi không có nhiều thì chúng trở về ổ và ngủ ngon.
Cứ như vậy bọn chó sống qua mùa đông.
Khi mùa xuân về sự sống cũng tái sinh dần dần theo ánh nắng ấm áp và làn gió nhẹ nhàng.Lũ chó lớn hẳn so với lúc trước.
Nhưng ngày ngày chúng vẫn quanh quẩn đợi mẹ mang thức ăn về.
Rồi một ngày nọ hai con chó trong đàn không quay về trước lúc xẩm tối khiến cho bọn chó kia nhặng lên một ý nghĩ rằng chúng đã kiếm được món gì rất ngon mà không muốn chia chác.Rồi khi chó mẹ về nó hối hả sợ hãi điên cuồng sục sạo quanh con hẻm, tru lên từng hồi dài rồi lao vào thành phố trong đêm.Nhưng rồi nó cũng chỉ trở về có một mình.
Ngày qua ngày bọn chó cũng thôi rên lên ăng ẳng vì việc hai con chó kia đã bỏ đàn nhưng chẳng bao giờ chúng thôi nghĩ đến những miếng ngon mà bọn kia được nếm ở ngoài.
Chúng không biết rằng con chó lớn đã chết trong một lần chạy trốn.Đôi tai đen trắng của nó nhuốm trong màu đỏ.Con chó đen sợ quá bỏ chạy miết trên đường cho đến khi con người tốt bụng nhặt nó về nuôi.
Bọn chó con còn lại lớn lên dần bằng chính máu của mẹ chúng và không ngừng than trách việc mẹ già ngày càng mang về ít thức ăn hơn.Con chó mẹ ngày càng kiệt sức vì lũ con chỉ vì nó muốn chúng mãi thuộc về mình.
Cái thùng tôn hoen rỉ đã chẳng còn chứa nổi gia đình chúng nứt vỡ từng mảng sắt rỉ hoen ố.Con hẻm vẫn vậy nắng chỉ chiếu đến đầu bên kia còn ánh đèn cũng chẳng bao giờ hắt nổi tới bên này.
 

tran minh

Member
Bi hài chuyện chữa bệnh chó, mèo


Hanoinet - Khi nhu cầu nuôi thú cảnh (chó, mèo...) tăng cao thì dịch vụ khám chữa bệnh cho các con vật này cũng phát triển.

Hanoinet - Khi nhu cầu nuôi thú cảnh (chó, mèo...) tăng cao thì dịch vụ khám chữa bệnh cho các con vật này cũng phát triển.



Song, đã là bệnh thì sẽ có bệnh chữa được và bệnh không chữa được, vì thế xung quanh chuyện chữa bệnh cho chó, mèo cũng lắmbi hài...



“Bệnh viện” chữa bệnh chó, mèo



Nghe thì lạ nhưng Bệnh viện này hoàn toàn có thật tại Hà Nội. Thành lập năm 2000, Phòng chẩn trị bệnh chó, mèo & thú cảnh của Công ty HANVET là nơi khám và điều trị bệnh cho nhiều loại thú cưng và được khách hàng gọi một cách thân thiết là "bệnh viện". Bệnh viện này ban đầu có một cơ sở tại số 88 Trường Chinh (quận Đống Đa), sau mở rộng thêm tại 490 Hoàng Hoa Thám (quận Ba Đình) và gần đây thêm một cơ sở tại 338 Nguyễn Văn Cừ (quận Long Biên). Bác sỹ thú y Nguyễn Thanh Huyền, người quản lý Bệnh viện cho biết: Những ngày đầu đi vào hoạt động, số lượng khách chỉ đếm được trên đầu ngón tay (1-2 con) nhưng con số đó đã nhanh chóng tăng lên, đặc biệt là 2 năm lại đây. Tại cơ sở chính ở số nhà 88 Trường Chinh, hiện mỗi ngày có từ 20-30 con thú cảnh được đưa đến khám chữa bệnh. Đặc biệt là số thú đến điều trị nội trú cũng tăng cao, lúc cao điểm có thể lên tới 10-12 con, khiến Bệnh viện rơi vào tình trạng... quá tải, không đủ chuồng. Từ năm 2006 đến nay, thú cảnh được người nuôi lựa chọn hơn, trong đó có nhiều loài chó quý, lạ và đắt tiền (đa số mua ở nước ngoài về, giá khoảng 700-800USD/con). Vì thế mỗi khi không may đau ốm, thú cảnh thường được người nuôi mang đến cứu chữa tại Bệnh viện.



Theo bác sỹ Huyền, đa số các động vật cảnh (chó, mèo, khỉ, chuột lang, nhím, chim, rùa...) đều bị bệnh đi ngoài, song không con nào phức tạp bằng chó. Chó có nhiều loại bệnh và nhiều nguyên nhân gây bệnh. Bệnh của chó thường là bệnh Carê (đi ngoài), bệnh sài sốt và bệnh parvovirut (đi ỉa ra máu, gây chết 80-90% con bệnh). Giá điều trị (nội trú) tại Bệnh viện đối với một con thú cảnh khoảng 10kg là 25.000đ/ngày, cộng cả tiền thuốc là 40.000đ/ngày. Khám và điều trị ngoại trú khoảng 35.000đ/con (cả tiền thuốc). Số tiền này có thể phát sinh theo mức độ của bệnh. Đối với những con bị bó bột, giá dịch vụ từ 60.000-100.000đ/ca... Bác sỹ Huyền cho biết, thú cảnh là con vật cưng của người nuôi nên khi được đưa vào "bệnh viện", các y bác sỹ rất thận trọng trong việc khám chữa và điều trị. Song cũng vì là con vật (không biết nói) nên xung quanh việc khám chữa bệnh cho chúng đôi khi cũng gặp rắc rối.



Những chuyện bi hài...



Câu chuyện đáng nhớ nhất là năm 2006, một cặp vợ chồng người Hunggari đang sống tại Hà Nội mang đến Bệnh viện một con chó phốc. Con chó này bị bệnh đã hai tháng, đi chữa nhiều nơi không khỏi, được đưa vào điều trị nội trú. Hôm đó, bác sĩ Huyền mang chó ra giường khám bệnh, con chó vẫn nằm yên. Nhưng không ngờ, chị Huyền vừa quay ra lấy thuốc thì con chó đã chạy một mạch ra đường Trường Chinh. Bác sĩ vội đuổi theo con chó suốt đoạn đường gần 3km, nhưng do đường nhiều xe cộ nên chị không đuổi kịp, con chó đã chạy tuột vào ngõ phố. Khi biết chó bị mất, cặp vợ chồng người Hunggari đã bị sốc, bởi họ coi chó như con cưng của mình. Bất chấp mọi lời giải thích của Bệnh viện, họ đòi kiện Bệnh viện ra toà và đòibồi thường tiền tổn thất tinh thần, tiền chó, tiền chăm sóc và công nuôi dạy, tổng cộng khoảng 3.000USD, đồng thời mời luật sư bảo vệ. Để tránh phiền hà, Bệnh viện đã làm mọi cách để tìm con chó. Suốt 2 tuần liền, Bệnh viện cử người đi tìm và dán ảnh con chó khắp các ngõ phố thuộc khu vực lân cận, nhưng vẫn không thấy tăm hơi. Khi thấy Bệnh viện đã nỗ lực hết mình mà không tìm được, cặp vợ chồng người Hung mới chấp nhận hoà giải và nhận mức bồi thường là một con chó cùng loại và 2 triệu đồng tiền công nuôi.



Một câu chuyện đáng nhớ khác là một người đàn ông ở quận Thanh Xuân mang đến Bệnh viện một con mèo xù Nga bị bệnh Carê nặng. Điều trị ròng rã 2 tuần, con mèo vẫn không khỏi. Khi biết mèo bị chết, anh chủ đã lặng lẽ ra sân khóc và... ngất xỉu. Nhân viên Bệnh viện phải pha nước đường cho anh uống, anh mới dần tỉnh lại. Bác sĩ Huyền tâm sự, thú cảnh là những con vật nuôi gần gũi với con người, vì thế khi có sự cố gì xảy ra với chúng thì gia chủ thường lo lắng và rất thương tiếc.



Một câu chuyện nữa xảy ra cách đây vài năm mà đến giờ chị Huyền vẫn còn nhớ, đó là chuyện về một con chó phốc của một người đàn ông ở quận Hoàn Kiếm. Con chó này được mang đến Bệnh viện trong tình trạng đẻ khó. Các bác sĩ và nhân viên ở đây phải mổ đẻ cho nó nhưng vì chưa được tiêm phòng nên sức đề kháng của nó kém, đã bị nhiễm bệnh do virút. Sau một tuần đi ngoài ra máu, con chó bị chết. Khách hàng đã bắt đền vì cho rằng trong khi mổ, con chó đã bị bác sĩ khâu vào ruột! Mọi việc trở nên căng thẳng. Khách hàng yêu cầu bác sĩ giải thích, viết tường trình toàn bộ quá trình điều trị cho chó. Nhưng tường trình xong, khách hàng vẫn không chịu. Bác sĩ Huyền phải mổ con chó ra cho khách hàng xem lại vết mổ. Khi thấy không còn gì để nghi ngờ, anh ta mới đồng ý với kết luận của bác sĩ.
 

tran minh

Member
bài này cũng dài nữa:


Chó thật, chó đá, chó rơm



Chó là con vật sống rất gần gũi người. Sướng khổ như người.

So với chó nhiều nước thì chó Việt Nam chưa được xếp vào hạng được ăn ngon mặc đẹp. Tuy vậy, chó Việt Nam có thể hãnh diện về mặt huyết thống của mình.

Ta có ít nhất là ba giống chó. Ngoài chó thật biết gâu gâu, ta còn có chó đá trơ trơ và chó rơm im thin thít... Mỗi giống một vẻ, mười phân gần vẹn mười.


Số phận con chó bằng xương bằng thịt thì ai cũng đã biết. Thật đáng thương.

Ăn thì bữa đói bữa no. Làm thì chẳng từ chuyện gì. Dọn cho thằng cu, liếm cho cái ** mỗi lần chúng bậy ra nhà. Nào là canh trộm ban đêm, canh người lạ ban ngày.

Thế mà còn bị... chụp mũ. Mất mạng như chơi.

Một người cưỡi ngựa đi đến đầu làng kia, có con chó đang ngủ giữa đường, bỗng giật mình thức dậy, đuổi theo con ngựa, sủa cắn mãi, làm cho con ngựa sợ, chạy lồng lên.
Người cưỡi ngựa tức giận vô cùng, muốn giết ngay con chó, mới bảo rằng:
- Tao mà có súng, thì cho mày một phát là hết cắn. Nhưng mà được, tao đã có cách làm cho mày chết.
Nói xong, người kia chạy đến giữa làng, kêu to lên rằng:
- Chó dại! Chó dại!
Những người xung quanh đấy, nghe tiếng kêu chó dại, liền vác gậy, vác xẻng ra đuổi đánh chết con chó.
Gớm thay cho lời nói của người ta, có khi giết hại được hơn là đồ binh khí!

(Quốc văn giáo khoa thư, lớp sơ đẳng, 1948)

Chó nước ta được sinh ra trên mảnh đất lắm người nhiều quán nhậu. Ngàn năm văn hiến, đậm đà truyền thống "hoa thơm bướm lượn, chó rông người thèm".

Chó là một trong mấy cái thú ở đời. Không những thế...

Con chó nhà kia bị chủ hoá kiếp.
Xuống âm phủ, Diêm Vương gọi chó ra hỏi tội.
- Đồ chó chết kia, ai cho mi được vinh dự đến chầu ta?
Chó run sợ, mếu máo kể lể :
- Tâu Diêm Vương, con ăn ở hết lòng với vợ chồng chủ con từ tấm bé. Nào trông nhà, nào dọn đồ dơ.
Thế mà con vẫn còn bị chúng nó đánh chửi, huỷ hoại cả "thú vị". Đau quá Diêm Vương ơi. Đời mà hết động cỡn, sống âm thầm như một hoạn quan, thì còn gì là đời.
Tuần vừa qua, nhà chúng nó bỗng vui như mở hội. Nào rượu, nào mẻ, riềng tỏi, lạc rang, húng quế. Thân con bị băm vằm, chia năm xẻ bảy. Tưng bừng lá vông. Rựa mận, tiết canh, dồi, gan. Nướng, xào, luộc, rim...
Diêm Vương nuốt nước miếng, cắt lời chó:
- Đừng nói nữa kẻo... tao thèm. Trông mày hơ hớ như thế kia thì ai mà chả muốn "đánh" mày.
Chó bẽn lẽn... toát mồ hôi lạnh.
- Mày bị giết oan, tao cho đi gác cầu Vòng. Chờ ngày bọn khốn nạn kia xuống đây, cho mày bẻ răng, xẻo lưỡi, móc mắt chúng nó.
Diêm Vương cho chó chơi trò cân phúc, cân tội! Có tiếng xì xào "Phen này chúng mày sẽ biết... mõm ông". Nhưng không...
- Con không biết trả thù. Con chỉ xin Diêm Vương bắt chúng nó từ nay phải tôn trọng "cẩu quyền", "thú vị", cho đồng bào con được nhờ.
- Khá khen thay. Hôm nay ta học được bài học "Có dung người dưới mới là khuyển trên".
Từ đó, trên dương gian bắt đầu có hội bảo vệ súc vật.

Đấy là chuyện dưới âm phủ. Chuyện trên trần gian cũng lâm li không kém.

Có lần tôi được nghe bố mẹ kể chuyện những năm loạn lạc.

- Làng mình được lệnh phải giết hết chó.
- Mấy con mực, con vện cứ thấy tự vệ, du kích là sủa toáng lên. Tây ngoài đồn bốt hô lính chạy vào làng lùng xét, tra hỏi. Uỷ ban bắt buộc phải đối phó kịp thời...
Thế là làng xóm được một dịp đánh chén bất đắc dĩ.
Ông giáo ngà ngà say, đưa tay dụi mắt, giọng lè nhè:

"Phong trần đến cả thôn quê
Tang thương đến cả trâu kia khuyển này"

Chó cũng bị đẩy vào cuộc chiến. Nói chẳng ai tin.

Ngoài mấy trường hợp đặc biệt kể trên, phần đông chó Việt Nam sống cuộc sống bình thường của chó. Nghĩa là ăn, ngủ, chạy rông. Thỉnh thoảng a dua bạn bè.

Con chó đi gặp con gà trống mới chào, rồi nói:

- Tôi trông cho gặp anh một chuyến, mà hỏi một chuyện.

Con chó mới hỏi:

- Trời phú tính cho anh hay, chớ phải chơi sao! Sao lại biết canh ba, lại khi gần sáng dậy mà gáy; ngày ngày cũng vậy.

Con gà nói :

- Cái là trời đã phú tánh hễ tới chừng thì gáy.

Rồi con gà mới hỏi:

- Còn như anh làm sao anh biết có người đi mà sủa?
- Vốn cái tâm tôi thuộc đất: hễ động đất là động tới tâm tôi, nên tôi biết.
- Mà khi anh nằm dưới đất thì làm vậy, chớ như khi anh nằm trên ván, thì biết sao được mà sủa?
- Chừng tôi ở trên ván, nghe chúng sủa, thì tôi bắt chước sủa hùa theo mà thôi.

(Trương Vĩnh Ký, Chuyện đời xưa, Sudasie tái bản, 1994)

Con chó thành thực đến độ dễ thương. Không biết nó có hùa theo bạn bè cắn càn người ta không?

Xưa kia tục ta tin rằng chó trắng mũi đỏ là yêu khuyển, không nên nuôi. Ngược lại, nên nuôi chó đen vì giống này kị yêu ma.

"Giống chó (trắng) này tuy mang hình chó, nhưng khi chủ vắng nhà, nó nhảy lên nằm võng đưa như người, và những đêm thanh vắng, sáng trăng suông nó sẽ đội nón, chống gậy đi trên mái nhà bằng hai chân sau như người. Nó sẽ tìm gặp những yêu ma để tỏ rõ hết mọi sự trong nhà và xui giục ma quấy rầy nhà chủ, gây bệnh hoạn làm đau ốm các người trong gia đình.
Những phụ nữ hữu sinh vô dưỡng khi sinh thường lấy máu chó đen vẩy ở quanh buồng đẻ để tà ma không dám tới, nhất là để kỵ giặc Phạm Nhan. Theo ông Nghiêm Thẩm, thì các sản phụ này phải ăn thịt và dồi chó đen và còn phải chôn ở dưới chân giường xương chó đen nữa. Phải kén chó đen tuyền mới hiệu nghiệm".

(Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, tập 2, Xuân Thu tái bản, tr. 265).

Thời Xuân Thu, Phạm Lãi giúp Việt Câu Tiễn đánh bại được Ngô Phù Sai.

Câu Tiễn là người đa nghi, hay giết. Phạm Lãi đoán biết rằng những người có công giúp Câu Tiễn trong lúc khó khăn, không thể sống chung với Câu Tiễn trong thời bình.

Phạm Lãi quyết định từ quan. Trước khi rời bỏ Câu Tiễn, ông nói với xung quanh:

"Thỏ tử cẩu phanh, điểu tận cung tàng" (thỏ chết rồi thì chó bị làm thịt, chim không còn thì cung bị cất dấu).

Phạm Lãi là một nhà tiên tri. Ông còn cho chúng ta biết một điều quan trọng là người Trung quốc cũng ăn thịt chó. Rất có thể trước cả người Việt Nam.

Thế mà nhiều người cứ bô bô... tự hào bậy!

Trở lại chuyện chó nước ta.

Chó Việt Nam thông minh, có óc sáng tạo. Cứ nghe chó giãi bày tâm sự với đám trâu, ngựa, dê, gà, lợn thì đủ hiểu:

(...)
Khi sống thì gìn giữ của đời
Khi thác xuống giữ cầu âm giới
Người có phước muông đưa ra khỏi
Ai vô nhơn, qua chẳng đặng đâu
Chủ có lòng suy trước, xét sau
Khi lâm tử, gạo tiền tống táng
Chủ đã có công dày, ngãi rộng
Muông dễ không tiếp rước đãi đưa (...)

(Truyện Lục súc tranh công)

Thật khó tin! Chó chết được chủ lo gạo tiền, tống táng. Nước ta có chủ nào tử tế với chó đến mức như vậy không?
Có chứ! Có nhiều lắm. Nhưng tại sao chó lại được đối đãi như vậy? Tại vì...

Thành ngữ "Tiền cột cổ chó" được Huỳnh Tịnh Của (Đại Nam quốc âm tự vị) giải nghĩa là: "Ngu tục hiểu con chó chết rồi, hồn nó xuống giữ cầu âm giái, cho nên phải cột tiền hối lộ mà tống táng, hoạ ngày sau nó đã không cắn mà lại đưa mình qua cầu âm ti".

Chu choa, chèng đéc ơi!

Phải công nhận rằng chó Việt Nam đáng nể hơn chó các nước khác.

Chủ kia chắc là ăn ở cũng khá lem nhem, sợ bị Diêm Vương chiếu cố. Hắn lo móc nối ngay từ bây giờ, sửa soạn phong bì đi hối lộ cai tù tương lai của âm phủ. Gặp được con chó ngoan, biết điều. Mình là chó, lúc cần mình thì nó tôn mình lên. Hết cần thì nó cho một chày là xong. Đừng tưởng bở. Mình gặp thời, nó mời mình ăn. Không ăn đứa khác cũng đớp mất. Uổng của trời. Chi bằng cứ bài bản "vừa có tình, vừa có lí" cho xong chuyện.

Tiếc rằng dư luận lâu nay cứ chĩa mũi dùi vào mấy ông, mấy bà đầy tớ vênh váo kia! Nhầm đối tượng rồi, bà con ơi. Ồn ào mà chả đi đến đâu. "Chó sủa, đoàn người cứ đi" (Les chiens aboient, la caravane passe).

Trước hiện tượng "Tiền cột cổ chó", giới khoa học nước ta tỏ ra lo ngại, tranh cãi sôi nổi. Phe theo thuyết tiến hoá thì cho rằng chó truyền bệnh sang người. Phe khác phản bác, dựa vào lịch sử xã hội để chứng minh rằng người truyền bệnh sang chó.

Tuy chưa có kết luận thống nhất nhưng cả hai phe đều đồng ý với nhau trên một điểm là người giống chó, chó giống người, cả hai cùng biết ăn hối lộ.

Dân đen gọi những ông hèn kém mà lại có địa vị cao, hợm hĩnh, là "chó nhảy (hay ngồi) bàn độc". Bàn độc là bàn ngồi đọc sách, bàn để đồ thờ. Có người diễn nôm chữ độc là chất độc, là cái bả. Nghe cũng hay hay.

Năm 1929, Nguyễn Công Hoan viết truyện ngắn Răng con chó của nhà tư sản, kể chuyện một ông lão ăn mày lập mưu cướp được đĩa cơm của chó, bị ông chủ chó phóng xe ô tô "kẹp cho mày chết tươi, rồi ông đền mạng. Bất quá ba chục bạc là cùng!".

Khoảng 1952, Canh Thân sáng tác bản nhạc tả cảnh chó bẹc-rê nhà giàu "lếnh loáng hết ngay một đĩa đầy" thịt bò.

- Mới thấy một con chó nhà giàu mà đã nóng mặt. Những nhà tư sản mới bây giờ nuôi cả bầy có nghe ai nói gì đâu!

Ngày xưa, nước ta có "Chó đá" (Thạch khuyển).

Lần kể xuân thu biết mấy mươi
Cửa nghiêm thăm thẳm một mình ngồi
Đêm thanh nguyệt dãi màng trông nguyệt
Ngày vắng ruồi bâu biếng ngáp ruồi
Cắn kẻ tiểu nhân nào đoái miệng
Chào người quân tử chẳng phe đuôi
Phỏng trong sức có ngàn cân nặng
Dấu nhẫn ai lay cũng chẳng dời.

(Lê Thánh Tông, Hồng Đức quốc âm thi tập)

Cửa nghiêm là chỗ thờ phụng trang nghiêm.

Trước kia, hai bên cửa vào nội điện Lam Sơn có "hai con chó đá thô sơ". Phan Huy Chú cũng cho biết "ngoài cửa nghi môn có hai con chó ngao bằng đá rất thiêng" (Nguyễn Tiến Cảnh, Mỹ thuật thời Lê sơ, Văn Hoá, 1978, tr. 35).

(Chúng tôi có tham khảo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú nhưng không thấy đoạn viết được Nguyễn Tiến Cảnh nói đến).

Bằng chứng chắc chắn hơn là con chó đá chầu trước đền thờ Đinh Tiên Hoàng, tại Hoa Lư. Theo Bezacier thì con chó đá này được tạo dựng vào khoảng năm 1610 (Louis Bezacier, L'art vietnamien, Editions de l'Union française, 1955, tr.193).

Dường như lúc đầu, khoảng thế kỉ 15 hoặc sớm hơn nữa, người ta đặt chó đá để canh giữ chỗ thờ phụng vua.

Đời sau, nhiều làng bắt chước chôn chó đá để yểm trừ ma quỷ, bảo vệ dân làng. Ban đầu chôn ở cửa đình, cửa chùa, rồi dần dần chôn cả ở cổng làng, đường làng.

Cadière (1918) cho biết:

Làng Nam Phổ Đông nằm trên đường từ Huế ra Thuận An có chôn 2 con chó đá. Một con để chắn hướng đòn ngang của ngôi đình làng Phú Khê nằm gần đó. Con kia để chắn hướng một con đường chạy qua bãi tha ma.

(Léopold Cadière, Croyances et pratiques religieuses des Vietnamiens, tập 2, Ecole française d'Extrême-Orient, 1992, tr.132, 133).

Dưới gốc đa già, bên cạnh con đường dẫn vào làng Hoàng Mai (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội ngày nay) trước năm 1945, có chôn 4 con chó đá.

Tiếp theo làng quê, đến lượt các nhà giàu cũng chôn chó đá.

Xưa kia, cửa ngõ thường không làm đúng chính giữa nhà và sân để cho người ngoài đừng nhìn thẳng vào trung tâm nhà. Người ta cũng thường kiêng không nên để cho có con đường đâm thẳng vào nhà, hay là có đền chùa ở trước nhà. Nếu bất đắc dĩ không tránh được những điều kỵ ấy thì người ta chôn ở trước nhà một con chó đá hay là treo một cái gương ở trên cửa chính để yểm tà khí.

(Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, Đông Nam Á tái bản, 1985, tr.179).

Kho thóc của thành Quảng Trị có chiếc đòn hướng vào dinh quan án sát. Người ta cho đắp một con chó (thần cẩu) đặt trên mái dinh để ngăn chặn ảnh hưởng của chiếc đòn kia (L. Cadière, sđd).

Hàng quý tộc chôn chó đá để canh giữ, bảo vệ chỗ thờ vua chúa. Nhà phong thuỷ chôn chó đá để thay đổi dương cơ, âm phần. Dân gian chôn chó đá để xua đuổi ma quỷ.

Nếu không tiện chôn hay đặt chó đá thì có thể gắn một tấm gương.

Tại Huế, gần bến Đông Ba có nhà bị đòn ngang của đền Quan Đế phía trước đâm thẳng vào. Chủ nhà cho gắn một tấm gương trên mái. Gương sẽ phản chiếu, đổi hướng đi của chiếc đòn ngang.

Bị một con đường phía trước hướng thẳng vào nhà người ta cũng cho đặt một tấm gương trên mái để tránh rủi ro. (L. Cadière, sđd).

Thành ngữ "Đánh chó đá vãi ***" được dùng để ám chỉ bọn bất tài mà lại hay huyênh hoang, khoác lác.

Chó rơm (sô cẩu) có từ thời cổ xưa. Lão Tử than:
"Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu ; thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu..." (Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm ; thánh nhân bất nhân, coi trăm họ như chó rơm...).

Những con chó kết bằng rơm khi chưa bày để cúng thì được cất kỹ trong rương hoặc giỏ, bao bằng gấm vóc, khi cúng xong rồi, người ta liệng chúng ra đường, người đi đường giẫm lên đầu, lên cổ chúng hoặc lượm về để nhóm lửa. (Nguyễn Hiến Lê, Lão Tử -Đạo đức kinh, Văn Hoá, tr. 171).

Chó rơm bị vứt ra đường, bị người ta giẫm lên, hoặc lượm về để nhóm lửa. Như vậy thì chó rơm không phải là đồ tế lễ của triều đình, vua chúa.

Chó rơm là vật cúng của dân gian. Bên cạnh chó rơm (hay chó cỏ) còn có rồng đất cũng là một vật cúng.

Thành ngữ "Chó cỏ rồng đất", được giải nghĩa là:

"Xưa kia ta cúng tế thường bện chó bằng cỏ, nắn rồng bằng đất để dùng lễ cúng; chừng cúng xong thì đem đi liệng bỏ. Nghĩa rộng (của thành ngữ) là: Người hoặc vật mà người ta hết cần dùng. Công thần đã đem mối nước lại cho nhà vua, mà bây giờ bị nhà vua sa thải".

(Diên Hương, Thành ngữ điển tích, Phương Lai, 1954, tr. 80).

Rồng là biểu tượng của vua chúa. Chó là con vật gần gũi dân đen. Tại sao "chó cỏ" lại nằm cạnh "rồng đất" trên bàn thờ?

Câu trả lời đơn giản là rồng (long) của dân gian không phải là rồng của vua chúa. Rồng của dân gian là con long xà (loài rắn lớn), con giao long (cá sấu, loài thuỷ quái), con khủng long của thời tiền sử.

Tín ngưỡng dân gian tin rằng:

Những kẻ sát nhân, những gái giang hồ, những người bất nhân độc ác khi chết hồn bị đoạ xuống địa ngục, phải leo qua cầu Vòng. Cầu Vòng trơn như bôi mỡ bắc qua sông Nại Hà. Những tội nhân thường chỉ leo được đến lưng chừng là ngã lăn xuống sông Nại Hà bị chó ngao, thuồng luồng, rắn giải cắn xé.

(Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, quyển 1, Xuân Thu, tr. 321).

Người ta phải làm lễ cúng chó ngao, thuồng luồng, rắn giải dưới âm phủ để cầu cho người chết qua sông Nại Hà được bình yên.

"Chó cỏ, rồng đất" tượng trưng cho chó ngao, thuồng luồng, rắn giải của âm phủ.

Nhiều người sợ chó ngao nhưng lại hay mang chó ngao ra... hù doạ người khác.

Hù doạ bằng cách mời thầy phù thuỷ làm phương thuật "Yểm bùa họng chó".

Thầy phù thuỷ làm một cái bùa, kết thành hình người mà thân chủ muốn trả thù, muốn hại. Rồi thầy thắp đèn đốt nhang, đọc thần chú, tung phép bắt hồn người kia nhập vào bùa. Bùa luyện xong, được thầy phù thuỷ yểm vào họng một con chó.

Người bị trả thù kia sẽ bị âm binh bắt nộp cho chó ngao.

Huỳnh Tịnh Của cho biết là chó cỏ (sô cẩu) còn được dùng để tế đảo vũ (cầu mưa).

Văn học thỉnh thoảng cũng mượn hình ảnh con chó để ví von, luận bàn thế sự.

Người thì chửi bọn làm tay sai cho thực dân Pháp:

Sống thì bắt thỏ thỏ kêu rêu
Thác thả dòng sông xác nổi phều
Vằn vện sắc còn phơi lững đững
Thúi tha danh hãy nổi lêu bêu
Tới lui bịn rịn bầy tôm tép
Đưa đón lao xao lũ quạ diều
Một trận gió dồi cùng sóng dập
Tan tành xương thịt biết bao nhiêu

(Nguyễn Văn Lạc, Chó chết trôi)

Người thì than vãn cho cuộc đời phù du:

Lò cừ nung nấu sự đời
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.

(Nguyễn Gia Thiều, Cung oán ngâm khúc)

Vân cẩu là đám mây hình con chó. Cuộc đời đổi thay nhanh như đám mây trắng bỗng chốc hoá thành hình chó xanh (thơ Đỗ Phủ).
Người khác lại muốn được... như chó:

Tâu rằng: "Hổ phận ngu si,
Đem lòng khuyển mã đền nghì bể sông" (Nhị độ mai)
Khuyển mã (chó ngựa) là lời tự khiêm của bầy tôi đối với vua hoặc tớ đối với chủ.
Ơ hay! Sao lại vàng thau lẫn lộn như thế? Bầy tôi có bổn phận của bầy tôi. Tớ có phong cách của tớ. Tại sao tôi tớ lại chơi trèo, đòi so sánh mình với chó ngựa? Vô tình hạ thấp uy tín của chó ngựa.

Cao Bá Quát mượn chuyện các quan cãi nhau để chửi khéo triều đình Tự Đức:

...Hai bên cãi nhau
Bên này bảo chó
Bên kia cũng chó
Hai bên đều chó
Rồi họ đánh nhau...

(Thái Bạch, Giai thoại văn chương Việt Nam, Xuân Thu tái bản, tr. 108)

Kho tàng văn chương bình dân truyền khẩu có bài (tạm đặt tên là) Đôi ta:

Em đẹp như phân lạc giữa dòng
Anh như chú khuyển đứng bên sông
Dòng sông nước chảy em trôi mãi
Anh đứng trên bờ rỏ dãi trông

Hương tình ngào ngạt, thiết tha đắm đuối. Tiếc thương cho số phận nổi trôi, đôi bờ phân cách. Bao giờ thuyền tình mới ghé bến mơ?

Kinh nghiệm sống dạy người dân quê một điều:

Chó đâu chó sủa chỗ không
Chẳng thằng ăn trộm thì ông ăn mày

Ngoài nghĩa đen, nghĩa bóng, câu ca dao còn phản ánh nền đạo lí của ta.
Ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, bất kể già hay trẻ, lớn hay bé, tất cả đều là thằng đáng khinh. Ngược lại, ăn mày được gọi bằng ông một cách kính trọng.

Ăn mày kiếm ăn giữa ban ngày, ăn trộm là phường chỉ thậm thụt bất kể ngày đêm.

Chó có đạo lí của chó. "Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo", chưa chắc chó đã thua người.

Các nước phương tây ngày nay đã thành công trong việc huấn luyện chó để cứu người, tìm ma tuý, chất nổ.

Người ta đang cố gắng dạy chó ngửi được những đồng tiền bẩn.

Trời đất quỷ thần ơi! Sao lại dạy chó... chống lại người như vậy? Người ta muốn diệt chủng chó à?

Chó nước ta thực tế, biết mình biết người. Không mơ mộng được cưng chiều. Chỉ mong giang sơn gấm vóc kia giảm bớt những lò sát sinh treo "cờ tây" ngất nghểu. Bảy, tám món ăn chơi. Chín, mười món ăn thiệt. Bớt những tấm bảng hiệu chào khách lủng lẳng, cao gần bằng... mái đình làng!

Trong ngôn ngữ hàng ngày, chúng ta nên thận trọng để tránh một vài ngộ nhận.

"Chó má" là lời khen con nít mới đẻ xinh tốt, mà không dám nói ngay (Huỳnh Tịnh Của). "Đồ chó má" là câu chửi, khinh thường người khác.

"Cây chó đẻ" là một loài cỏ dùng làm thuốc chữa bệnh hậu sản. "Đồ chó đẻ" là câu chửi tục tĩu.

Đúng như các cụ vẫn thường nói, cứ đụng đến "đồ" là hết cả trang nghiêm. Nhất là... đồ chó.
 
Top