thanhcong
Member
Xin trích nguồn từ 1 bài viết ở viẹtdog.com / Tác giả : trangphuong
3#...IN-BREEDING:
Là việc lai tạo các con có huyết thống gần nhau như bố / *** với con, chị với em… In-breeding cần phải được thực hiện bởi các nhà lai tạo chó nhiều kinh nghiệm và có mục tiêu rõ ràng ví dụ như để bảo vệ 1 nguồn gien quý hoặc sửa chữa một số lỗi của 1 dòng chó giống. Phương pháp này giúp tạo ra được những con chó có đặc điểm gần với đặc điểm của loài nhất. Các nhà lai tạo thường ghép cặp các con chó có cùng huyết thống và có chung 1 số đặc điểm mong muốn. Cứ tiếp tục như thế, đôi khi chỉ cần sau một hoặc hai thế hệ, các tính trạng ấy trở nên “đồng trội” (từ do hunglvq dịch - homogeneous) và tất cả các con chó con của các con chó sinh ra từ phương pháp in-breeding sẽ thừa hưởng được gien thuần cho các tính trạng ấy.
Với phương pháp này, người ta có thể tạo ra được những con chó giống có mức độ thuần chủng cao. Với gien thuần, các nhà lai tạo chó sẽ có thể phần nào đoán trước được các con chó con sinh ra sau này sẽ có những đặc điểm như thế nào.
Tuy nhiên, phương pháp in-breeding có vài nhược điểm cần phải chú ý. Nếu in-breeding quá nhiều lần, tính đa dạng của gien sẽ bị suy giảm. Do in-breed, con vật được tạo ra thừa hưởng 1 cặp gien giống nhau từ cha *** trong hệ miễn dịch, theo đó, nó có 1 hệ miễn dịch kém mạnh mẽ hơn.
Ví dụ như ở báo Cheetah, do môi trường sống bị cô lập hay vì 1 lý do nào đó, chúng rất hiếm có khả năng giao phối với các con báo khác bầy. Hệ quả là khả năng kháng 1 số bệnh của chúng rất yếu. Ngoài ra, tần suất xuất hiện các đặc điểm xấu như răng hô / móm, đuôi cong (ảnh hưởng đến việc giữ thăng bằng và tốc độ khi vào cua gấp) ở báo Cheetah ngày càng phổ biến cũng bởi vì chúng in-breed quá nhiều lần. Dựa vào hệ quả này, các nhà cung cấp thú vật thí nghiệm (chuột bạch, thỏ,…) có thể tạo ra các con vật hoàn toàn không có khả năng miễn dịch hoặc không có khả năng kháng lại 1 số bệnh nào đó. Tương tự, nếu in-breed trong 1 giới hạn cho phép và có khoa học, người ta có thể tăng / giảm 1 đặc điểm nào đó của thú vật như tăng khả năng cho sữa, tăng tỷ lệ thịt nạc, tăng khả năng tăng trưởng…
Với phương pháp này, các con chó có gien “đồng lặn” sẽ rất yếu và theo quy luật đào thải, sẽ chết đi. Vì thế số lượng chó con trong ổ được tiếp tục sống sót thấp hơn các phương pháp khác.
Các phương pháp In-breed, line-breed và out-crossing đã được các nhà lai tạo chó nước ngoài thực hiện từ bao đời nay. Tuy nhiên trong điều kiện Việt Nam, với ít tiếp cận về các kỹ thuật của phương Tây nên vẫn còn rất e dè trong việc áp dụng các phương pháp lai tạo trên. Việc e dè ấy cũng có thể là do ảnh hưởng từ quan niệm đạo đức của con người; cũng có thể từ việc chứng kiến các biểu hiện như quái thai, ngu đần, chết non do việc in-breed tạo ra…
Tuy nhiên, ta đã thấy trong tự nhiên, khi thú sống bầy đàn với những quần thể có số lượng cá thể nhất định, việc out-crossing với các con thú khác bầy rất thấp. Vai trò truyền giống được thực hiện chủ yếu do con đực đầu đàn. Con đực đầu đàn có thể giao phối với tất cả các con cái khác trong bầy, thậm chí giao phối với con cháu, anh em của nó. Các cá thể sinh ra từ quá trình giao phối cận / đồng huyết này sẽ có cả con mạnh và con yếu. Con yếu vì cách này hay cách khác sẽ chết đi. Chỉ các con thực sự khỏe mạnh mới có thể sống sót và tiếp tục truyền giống. Đó là sự chọn lọc rất khắt khe của tự nhiên!
Một ví dụ rất điển hình là việc nuôi bồ câu. Thông thường, người ta chỉ bắt đầu nuôi với 1 cặp bồ câu, sau một khoảng thời gian nhất định, người ta có được một đàn bồ câu từ hai con đầu tiên. Khả năng out-cross với các đàn bồ câu khác cũng có thể xảy ra nhưng việc in-breed, line-breed trong đàn bồ câu ấy là chủ yếu.
Ví dụ thứ hai là giống Chinese Sharpei, trước khi giống chó này bị tuyệt chủng, người ta chỉ tìm được khoảng 10 con còn sót lại.
Hay như giống Pekingese (chó Bắc Kinh), một giống chó quý chỉ nuôi trong Tử Cấm Thành, khi quân Anh tấn công vào triều đình Trung Quốc xưa, do không muốn giống chó quý này lọt vào tay người Anh, Từ Hy Thái Hậu cho giết tất cả các con Pekingese nuôi trong cung cấm. Người Anh chỉ có thể cứu được 5 con, cho lên tàu đem về anh Quốc.
Hay là giống Dobermann được tạo ra từ những con chó ít ỏi nuôi trong nhà của ông Dobermann. Có thể nói những con Pekingese, Chinese Sharpei hay Dobermann mà ta nuôi ngày nay là hậu duệ của những con chó đầu tiên nói trên.
Do vậy, in-breed không phải là một cái gì đó tệ hại cần bị lên án. Nó không chỉ là giải pháp cứu cho một giống chó khỏi bị tuyệt chủng mà còn là 1 công cụ để lai tạo ra giống mới, đồng thời là một phép màu của những nhà lai tạo chuyên nghiệp để tạo ra những con chó thuần chủng.
Ngoài ra còn 2 loại nữa là 1#...OUT-CROSSING và 2#...LINE-BREEDING
Cái này nói chung cho tất cả các giống chó, còn chủ đề ở đây là giống chó American Bully, hiện vẫn chưa tìm được tài liệu tham khảo chỉ biết người chơi Bully trên thế giới rất ưa chuộng kiểu nhân giống này, mục đích chính là tạo ra những con đột biến...!
3#...IN-BREEDING:
Là việc lai tạo các con có huyết thống gần nhau như bố / *** với con, chị với em… In-breeding cần phải được thực hiện bởi các nhà lai tạo chó nhiều kinh nghiệm và có mục tiêu rõ ràng ví dụ như để bảo vệ 1 nguồn gien quý hoặc sửa chữa một số lỗi của 1 dòng chó giống. Phương pháp này giúp tạo ra được những con chó có đặc điểm gần với đặc điểm của loài nhất. Các nhà lai tạo thường ghép cặp các con chó có cùng huyết thống và có chung 1 số đặc điểm mong muốn. Cứ tiếp tục như thế, đôi khi chỉ cần sau một hoặc hai thế hệ, các tính trạng ấy trở nên “đồng trội” (từ do hunglvq dịch - homogeneous) và tất cả các con chó con của các con chó sinh ra từ phương pháp in-breeding sẽ thừa hưởng được gien thuần cho các tính trạng ấy.
Với phương pháp này, người ta có thể tạo ra được những con chó giống có mức độ thuần chủng cao. Với gien thuần, các nhà lai tạo chó sẽ có thể phần nào đoán trước được các con chó con sinh ra sau này sẽ có những đặc điểm như thế nào.
Tuy nhiên, phương pháp in-breeding có vài nhược điểm cần phải chú ý. Nếu in-breeding quá nhiều lần, tính đa dạng của gien sẽ bị suy giảm. Do in-breed, con vật được tạo ra thừa hưởng 1 cặp gien giống nhau từ cha *** trong hệ miễn dịch, theo đó, nó có 1 hệ miễn dịch kém mạnh mẽ hơn.
Ví dụ như ở báo Cheetah, do môi trường sống bị cô lập hay vì 1 lý do nào đó, chúng rất hiếm có khả năng giao phối với các con báo khác bầy. Hệ quả là khả năng kháng 1 số bệnh của chúng rất yếu. Ngoài ra, tần suất xuất hiện các đặc điểm xấu như răng hô / móm, đuôi cong (ảnh hưởng đến việc giữ thăng bằng và tốc độ khi vào cua gấp) ở báo Cheetah ngày càng phổ biến cũng bởi vì chúng in-breed quá nhiều lần. Dựa vào hệ quả này, các nhà cung cấp thú vật thí nghiệm (chuột bạch, thỏ,…) có thể tạo ra các con vật hoàn toàn không có khả năng miễn dịch hoặc không có khả năng kháng lại 1 số bệnh nào đó. Tương tự, nếu in-breed trong 1 giới hạn cho phép và có khoa học, người ta có thể tăng / giảm 1 đặc điểm nào đó của thú vật như tăng khả năng cho sữa, tăng tỷ lệ thịt nạc, tăng khả năng tăng trưởng…
Với phương pháp này, các con chó có gien “đồng lặn” sẽ rất yếu và theo quy luật đào thải, sẽ chết đi. Vì thế số lượng chó con trong ổ được tiếp tục sống sót thấp hơn các phương pháp khác.
Các phương pháp In-breed, line-breed và out-crossing đã được các nhà lai tạo chó nước ngoài thực hiện từ bao đời nay. Tuy nhiên trong điều kiện Việt Nam, với ít tiếp cận về các kỹ thuật của phương Tây nên vẫn còn rất e dè trong việc áp dụng các phương pháp lai tạo trên. Việc e dè ấy cũng có thể là do ảnh hưởng từ quan niệm đạo đức của con người; cũng có thể từ việc chứng kiến các biểu hiện như quái thai, ngu đần, chết non do việc in-breed tạo ra…
Tuy nhiên, ta đã thấy trong tự nhiên, khi thú sống bầy đàn với những quần thể có số lượng cá thể nhất định, việc out-crossing với các con thú khác bầy rất thấp. Vai trò truyền giống được thực hiện chủ yếu do con đực đầu đàn. Con đực đầu đàn có thể giao phối với tất cả các con cái khác trong bầy, thậm chí giao phối với con cháu, anh em của nó. Các cá thể sinh ra từ quá trình giao phối cận / đồng huyết này sẽ có cả con mạnh và con yếu. Con yếu vì cách này hay cách khác sẽ chết đi. Chỉ các con thực sự khỏe mạnh mới có thể sống sót và tiếp tục truyền giống. Đó là sự chọn lọc rất khắt khe của tự nhiên!
Một ví dụ rất điển hình là việc nuôi bồ câu. Thông thường, người ta chỉ bắt đầu nuôi với 1 cặp bồ câu, sau một khoảng thời gian nhất định, người ta có được một đàn bồ câu từ hai con đầu tiên. Khả năng out-cross với các đàn bồ câu khác cũng có thể xảy ra nhưng việc in-breed, line-breed trong đàn bồ câu ấy là chủ yếu.
Ví dụ thứ hai là giống Chinese Sharpei, trước khi giống chó này bị tuyệt chủng, người ta chỉ tìm được khoảng 10 con còn sót lại.
Hay như giống Pekingese (chó Bắc Kinh), một giống chó quý chỉ nuôi trong Tử Cấm Thành, khi quân Anh tấn công vào triều đình Trung Quốc xưa, do không muốn giống chó quý này lọt vào tay người Anh, Từ Hy Thái Hậu cho giết tất cả các con Pekingese nuôi trong cung cấm. Người Anh chỉ có thể cứu được 5 con, cho lên tàu đem về anh Quốc.
Hay là giống Dobermann được tạo ra từ những con chó ít ỏi nuôi trong nhà của ông Dobermann. Có thể nói những con Pekingese, Chinese Sharpei hay Dobermann mà ta nuôi ngày nay là hậu duệ của những con chó đầu tiên nói trên.
Do vậy, in-breed không phải là một cái gì đó tệ hại cần bị lên án. Nó không chỉ là giải pháp cứu cho một giống chó khỏi bị tuyệt chủng mà còn là 1 công cụ để lai tạo ra giống mới, đồng thời là một phép màu của những nhà lai tạo chuyên nghiệp để tạo ra những con chó thuần chủng.
Ngoài ra còn 2 loại nữa là 1#...OUT-CROSSING và 2#...LINE-BREEDING
Cái này nói chung cho tất cả các giống chó, còn chủ đề ở đây là giống chó American Bully, hiện vẫn chưa tìm được tài liệu tham khảo chỉ biết người chơi Bully trên thế giới rất ưa chuộng kiểu nhân giống này, mục đích chính là tạo ra những con đột biến...!