hchungkt80
Dịch giả Vietpet
Mô tả: Loài Sage Koochee sở hữu một nguồn gen phong phú, mà truyền tải cho những con chó này một khả năng đặc biệt để thích nghi với môi trường sống của chúng. Nó cũng có nghĩa rằng sự biểu hiện về gen có thể biểu hiện một cách đa dạng đối với các cá thể khác nhau. Đối với lý do này, thường rất khó cho một nhà quan sát không chuyên để quyết định điều gì tạo nên một con chó đặc biệt, một con Koochee đích thực, hoặc loài chó Koochee là loài như thế nào?
Nói chung, Sage Kochee là loài chó lớn, thường là những con chó khổng lồ, với một bộ lông len dày, có thể ngắn, trung bình hoặc dài. Chúng có thể đa dạng về chiều cao, khoảng 69 đến 82 cm tới vai đối với những con cái, và đạt khoảng 71 đến 82 cm và có thể hơn nữa đối với những con đực. Trọng lượng của chúng biến đổi từ 38 đến 55 kg đối với con cái, và khoảng từ 40 đến 80 kg đối với những con đực và có thể nặng hơn nữa.
Cấu tạo cơ thể của chúng giống như những loài chó ngao có thể nặng hơn hoặc nhẹ hơn tùy thuộc từng cá thể, tất cả những con chó này đều sở hữu một cặp hàm như chiếc kéo cắt hoàn hảo, và đa số chúng đều không mắc phải những ảnh hưởng xấu về gen di truyền mà những con chó hiện nay trên thế giới mắc phải. Những căn bệnh này bao gồm chứng loạn sản xương hông, đặc biệt phổ biến với những loài chó lớn hơn.
Hình dáng của đầu thủ một con Koochee có thể biến đổi từ hình dạng góc cạnh (wedge-type head), dạng viên gạch (brick-type), hoặc dạng con gấu (bear-type), hình đầu thủ dạng con gấu thường đa phần là gặp với những con chó miền núi. Những chiếc đuôi thường được cắt cộc tới khoảng 1/3 độ dài của đuôi, và thường chĩa thẳng lên hoặc hơi góc cạnh. Một cách truyền thống, tai thường xén bớt., thường là sát đến gốc tai.
Sage Koochee là những con chó cao lớn, với sống lưng thẳng, mà thường tạo nên một cấu trúc cơ thể vuông góc vắn. Cổ chúng thường dài và dầy,với lớp da bùng nhùng từ hàm cho đến ngực. Đầu thủ ngang tầm so với cơ thể, hoặc hơi có phần chúi xuống, với cặp mắt luôn hướng về phía trước. Mõm khô và cơ bắp.
Chúng thường mang những đốm sẫm màu nhưng không trải dài trên toàn bộ cơ thể. Những đốm này có thể xuất hiện ở trên mõm, sống mũi và bụng. Màu sắc của bộ lông rất đa dạng, và màu sắc thì không phải là yếu tố quan trọng để quyết định xem loài Koochee nào. Không quan trọng cả về độ dài hoặc cấu trúc cuả lông. Hầu hết, dải lông dài hơn bao phủ suốt chiều dài của lưng, trong khi khu vực cổ thì lông len dầy và mượt như sa tanh, và cũng dài hơn một chút so với những nơi khác của cơ thể.
Kích cỡ của những chiếc răng nhỏ so với những con cái, và rất lớn đối với những con đực, với những cặp nanh dài hơn một một phần tư inch (3,175 cm; 1 inch xấp xỉ 2,54 cm). Hình dáng của nanh có thể như móc câu với gốc nanh to hơn và đỉnh của nanh nhọn hướng chìa ra khỏi miệng, hoặc có thể thẳng hơn và giống như nanh sói.
Phân loại: Có ba loại được ghi nhận phân theo khu vực, phụ thuộc một trong hai hình dạng chính – dạng sư hình, và dạng hổ hình. Những loài này dược xác định phụ thuộc vào những đặc điểm cấu tạo và vận động.
Dạng sư hình (Djence Sheri)
Dạng hổ hình (Djence Palangi)