• Chào mừng bạn Khách đến với diễn đàn, chúc bạn vui vẻ sinh hoạt cùng cộng đồng Vietpet.
    Diễn đàn đã có sẵn cơ sở dữ liệu tương đối lớn về các vấn đề thường gặp như thú y, huấn luyện, chăm sóc thú cưng..., bạn Khách vui lòng tìm đọc kỹ trước khi gửi câu hỏi.
    Lưu ý: Diễn đàn không chấp nhận ngôn ngữ chat, bài viết không có nội dung ( bài spam).

Sài Gòn cà phê xưa và nay

Người Sài Gòn xưa bên ly cà phê là cả một câu chuyện dài về một thời để nhớ.
Từ thuở còn uống cà phê bằng đĩa húp xì xụp, hay cà phê vớ, cà phê phin-người Sài Gòn thường chọc mấy anh bộ đội là "nồi ngồi trên cốc"-đến cà phê nhạc, cà phê bar ngày nay đã ôm trọn cả một đời của không ít người. Họ đến không phải chỉ để uống cà phê mà còn là tâm tư, là câu chuyện trao đổi về thế thái nhân tình, về học thuật, về văn chương... và về ly cà phê.
Sau giải phóng, khoảng thập kỷ 80, cà phê cóc, vỉa hè được dịp nở rộ. Tình trạng ngăn sông cấm chợ khiến hạt cà phê từ Tây Nguyên về đến Sài Gòn phải trải qua bao nhiêu mồ hôi nước mắt, cả tù đầy cả máu của người vận chuyển. Cà phê không còn nguyên chất nơi các vỉa hè, cà phê được pha thêm nào bắp nào cau... dân ghiền lấm lét bưng ly cà phê thủ thế vọt mỗi khi có công an tới. Nhưng cho dù thế, người ghiền cà phê vẫn chui lủi vụng trộm để sống chết với thú vui của mình.

Trong nỗ lực tìm hiểu thêm về ly cà phê, văn hóa thưởng lãm cà phê tại Sài Gòn từ sau Giải phóng đến trước đổi mới (1986), một giai đoạn ít được nói tới. Tớ viết vài dòng này mong là sẽ có vị khách nào đó biết được về giai đoạn bí ẩn trên, cùng tớ tản mạn bên ly cà phê.

Kính mời!

Bài viết dưới đây của nhà văn Trương Đạm Thủy góp một hoài cảm về ly cà phê Sài Gòn xưa và nay. Tiêu đề là do tớ đặt lại.

Sài Gòn cà phê xưa và nay



Nhà văn Trương Đạm Thủy

Hồi xửa hồi xưa … có một Sàigòn người ta gọi cà phê là “cà phe”, đi uống cà phê là đi uống “cà phe” với giọng điệu rất là ngộ nghĩnh. Tiếng Tây gọi cà phê là Café, tiếng Anh là Coffee nhưng mấy xì thẩu chợ lớn thì gọi là “cá phé”. Vậy thì café, coffee, cà phê, cà phe hay là cá phé muốn gọi sao gọi nhưng ai cũng hiểu đó là món thức uống màu đen có hương vị thơm ngon, uống vào có thể tỉnh người nếu uống quá đậm có thể thức ba ngày không nhắm mắt…
TRỞ VỀ THẬP KỶ 50: CÀ PHÊ VỚ
Năm một ngàn chín trăm… hồi đó người Sàigòn chưa ai biết kinh doanh với nghề bán cà phê cả. “Xếp sòng” của ngành kinh doanh…có khói nầy là do các xếnh xáng A Hoành, A Coón, chú Xường, chú Cảo…chủ các tiệm hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại. Vô bất cứ tiệm hủ tíu nào vào buổi sáng cũng có bán món cá phé, cà phê, cà phe đi kèm để khách có thể ngồi đó hàng giờ nhăm nhi bàn chuyện trên trời dưới đất. Hồi đó chẳng ai biết món cà phê phin là gì đâu? Các chú Xường, chú Cảo, A Xứng, A Hía chỉ pha độc một loại cà phê vớ. Một chiếc túi vải hình phểu được may cặp với một cọng kẻm làm vành túi và cán. Cà phê bột đổ vào túi vải (gọi là bít tất, hay vớ đều được).

Vì chiếc vợt cà phê nầy hơi giống như chiếc vớ dùng để mang giày nên “dân chơi” gọi đại là cà phê vớ cho vui.
Chiếc vớ chứa cà phê nầy sau đó được nhúng vào siêu nước đang sôi, lấy đũa khuấy khuấy vài dạo xong đậy nắp siêu lại rồi… “kho” độ năm mười phút mới có thể rót ra ly mang ra cho khách. Chính cái “quy trình” pha chế thủ công đầy phong cách Tàu nầy mà dân ghiền cà phê còn gọi nó là cà phê kho bởi chỉ ngon lúc mới vừa “kho nước đầu”. Nếu ai đến chậm bị kho một hồi cà phê sẽ đắng như thuốc Bắc. Có mấy khu vực có những con đường qui tụ rất nhiều tiệm cà phê hủ tíu. Ở Chợ Cũ có đường Mac Mahon (đọc là đường Mạc Má Hồng, nay là đường Nguyễn Công Trứ) có rất nhiều tiệm cà phê kho từ sáng đến khuya. Khu Verdun – Chợ Đuỗi (nay là Cách Mạng Tháng 8) cũng đáng nể bởi cà phê cà pháo huyên náo suốt ngày. Ở bùng binh Ngã Bảy (góc Điện Biên Phủ và Lê Hồng Phong bây giờ) có một tiệm cà phê hủ tíu đỏ lửa từ 4 giờ sáng cho đến tận 12 giờ đêm. Còn nếu ai đi lạc vào khu Chợlớn còn “đã” hơn nhiều bởi giữa khuya vẫn còn có thể ngồi nhăm nhi cà phê, bánh bao, bánh tiêu, dà – chả – quải đến tận sáng hôm sau.


TRANG TRÍ CHUNG CÁC TIỆM CÀ PHÊ HỦ TÍU TÀU
Sách phong thủy Tàu thường khuyên không nên cất nhà ở ngã ba, ngã tư đường vì dễ bị nạn xui xẻo nhưng các chú Xường, chú Hía, A Hoành, A Koón… thì đều chọn các nơi nầy làm chổ kinh doanh. Tuy Sàigòn, Chợlớn, Gia Định, Phú Nhuận, Đa Kao có hàng trăm tiệm cà phê, hủ tíu Tàu nhưng nhìn chung chúng đều có một “mô – típ – made in China” khá giống nhau, tức là quán nào ở phía trước cửa cũng có một xe nấu hủ tíu được làm bằng gỗ thiết kế một cách cầu kỳ.


Cà phê hủ tíu Tàu

Phần trên của xe được trang trí bằng những tấm kính tráng thủy vẽ những nhân vật Quan Công, Lưu Bị, Triệu Tử Long, Trương Phi trong truyện Tam Quốc Chí khá vui mắt.
Bên trong quán hoặc xếp bàn tròn hoặc vuông. Khách vừa vào trong gọi “cá phé”, song mấy tay phổ ky vẫn bưng ra một mâm nào bánh bao, xíu mại, há cảo, dà chá quải đặt trên bàn. Khách dùng hay không cũng chẳng sao “pà – con – mà!”.
UỐNG CÀ PHÊ PHẢI BIẾT CÁCH
Như đã nói ở trên, hồi đó không có cà phê ta mà chỉ có cà phê Tàu. Vì thế uống cà phê Tàu phải có một phong cách riêng. Cà phê được mang ra dân ‘sành điệu” hồi đó ngồi chân dưới chân trên, sau khi khuấy nhẹ cho tan đường bèn đổ ly cà phê ra cái đĩa đặt phía dưới. Chưa uống vội, khách chậm rãi mồi điếu thuốc rít vài hơi để chờ cà phê nguội.
Ông Sáu “trường đua” nay đã 80 kể rằng hồi ông còn là một chú nhóc nài ngựa ở trường đua Phú Thọ ông cũng uống cà phê theo phong cách nầy, tức uống bằng đĩa chớ không uống bằng ly. Bàn tay phải nhón lấy cái đĩa đưa lên miệng và húp sì sụp: “Uống vậy mới khoái, mới đúng kiểu của dân từng trải”, ông Sáu “trường đua” nói với vẻ tự hào.
Ông còn kể cho tôi nghe chuyện ông từng ăn mảnh ở mấy tiệm hủ tíu bánh bao hồi năm sáu chục năm về trước với giọng khoái trá: “Hồi đó tao làm nài ngựa. Hôm nào ngựa thắng độ thì nài được chủ ngựa thưởng cho bộn tiền. Hôm nào ngựa thua thì coi như đói.
Không sao, gần trường đua có một tiệm hủ tíu cà phê. Vào búng tay chóc chóc gọi cà phê. Cứ cho mấy thằng phổ ky mang bánh bao xíu mại ra bày trên bàn. Đợi đến khi nó mang cà phê ra rồi bỏ chạy sang bàn khác thì nhanh tay gở miến giấy phía dưới cái bánh bao ra và khoắng ngay cái nhân phía trong tọng vào miệng rồi đậy bánh lại như cũ. Thế là chỉ tốn ly cà phê vài xu mà đã có cái nhân bánh bao to đùng ngon lành trong bụng rồi”.
Theo ông Sáu “trường đua” thì các chủ tiệm cà phê hủ tíu hồi đó rất chiều khách. Sì sụp húp cà phê bằng đĩa xong muốn ngồi bao lâu cứ ngồi, hết trà cứ hô lên “xà dẵm” là có người mang ra bình trà mới, uống chừng nào chán thì đi.
Khi được hỏi tại sao dân “sành điệu” lại không uống bằng ly mà lại… húp cà phê bằng đĩa, ông sáu “trường đua” lắc đầu nói không biết chỉ biết dân “sành điệu” chơi vậy mình cũng bắt chước chơi vậy thôi, vậy mới là… sành điệu!
CÀ PHÊ PHIN HAY CÀ PHÊ "NỒI TRÊN CỐC"
Dòng cà phê… vớ càphê kho lững lờ trôi như thế hằng thế kỷ của thiên kỷ trước là như thế, cứ vào tiệm hủ tíu mà uống cà phê đổ ra đĩa rồi sì sụp húp thì được xem như đó là phong cách của dân chơi sành điệu.
Một người tên ông Chín “cù lủ”, một tay bạc bịp nay đã hoàn lương cho rằng dân cờ bạc, dân giang hồ hồi đó chẳng đời nào bưng ly mà uống như ngày nay. Kẻ ngồi nghiêm túc, nâng ly lên uống như uống rượu bị các đàn anh “húp” đĩa xem khinh bằng nửa con mắt, coi như hạng… “bột” lục hục thường tình không đáng kết giao.
Nhưng rồi cái quan điểm húp cà phê trên đĩa mới… “sang” cũng đến lúc phải lụi tàn, vì bị chê là kiểu uống bẩn, uống thô vụng khi trào lưu cái phin “filtre” bắt đầu xuất hiện và đã làm biến dạng cái kiểu uống cà phê trong tiệm hủ tíu. Vào thập niên 60 Nhà hàng Kim Sơn (nằm trên góc Lê Lợi – Nguyễn Trung Trực) mở cú đột phá ngoạn mục bằng cách bày bàn ghế ra hàng hiên dành cho các văn nghệ sĩ trẻ chiều chiều ra đó bàn chuyện văn chương và… rửa con mắt.
Hồi đó cà phê Kim Sơn chỉ có một đồng một cốc bằng giá vé xe buýt dành cho học sinh. Mặc dù chủ quán Kim Sơn lúc đó vẫn là người Hoa nhưng đã tiếp thu phong cách cà phê hè phố của dân Pari (Pháp).
Theo lý thuyết, những giờ uống cà phê là những giờ thư giản hoàn toàn, vừa nhăm nhi từng ngụm nhỏ cà phê dặc sánh vừa ngắm quang cảnh sôi động đông vui của đường phố. Thuở ấy con đường Lê Lợi vẫn còn những hàng me. Vào những ngày me thay lá, dưới ánh nắng chiều phớt nhẹ, lá me vàng khô rơi tản mản như hoa “com – phét – ti” lấp lánh làm cho đường phố trở nên… “mộng mị” và thơ… Kim Sơn biết tận dụng ưu thế chiếm lĩnh một góc ngã tư, tầm nhìn rộng bao quát để khai thác dịch vụ cà phê hè phố.
Cái phin đã trở nên quen thuộc, cao cấp hơn cái vợt cái vớ của cà phê kho trên cái siêu đất “phản cảm” xưa. Thời điểm nầy những nhà văn, nhà báo, các nhà doanh nghiệp tên tuổi cũng có những quán cà phê sang trọng xứng tầm với địa vị của họ.
Những La Pagode, Brodard, Givral, Continental là nơi gặp gỡ, giao lưu của giới thượng lưu Sàigòn.
CÀ PHÊ TÂY
Cà phê La Pagode khách không ngồi ghế sắt ghế gỗ mà ngồi trên những salon bọc da để phóng tầm mắt nhìn ra con đường Catinat (nay là Đồng khởi) con đường đẹp và sang nhất của Sàigòn. Cách La Pagode độ trăm mét Nhà hàng Continental cũng mở một không gian cà phê sang trọng đúng phong cách “Phăng – se”. Đối diện Continental là tiệm cà phê Givral nơi nổi tiếng với những món bánh ngọt tuyệt hảo.
Tiệm tràn ngập ánh sáng bởi những khung cửa kính nhìn ra Nhà Hát Lớn (nay là Nhà Hát TP) với một bầu trời khoáng đãng. Những nhà báo, văn nghệ sĩ thường ghé đây uống cà phê trước khi tỏa đi khắp nơi cho công việc riêng của họ. Còn một quán cà phê với một phong cách phương Tây như bàn ghế, trang trí nội thất sang trọng cũng nằm trên con đường nầy là quán cà phê Brodard. Với một phong cách cũng gần giống với La Pagode, không gian Brodard yên tĩnh, ánh sáng thật nhạt để khách có thể thả hồn êm ả bên tách cà phê nóng hổi quyện hương thơm.
Có thể nói từ giai đoạn nầy người Việt Nam ở Sàigòn “thức tĩnh” trước thị trường buôn bán cà phê mà từ lâu họ đã bỏ quên và đã để cho các chú Hoành, chú Koón, chú Xường… tự do khai thác. Khi qua tay người Việt quán cà phê không còn luộm thuộm những cái ‘đuôi” mì, hủ tíu, hoành thánh, xíu mại, há cảo, bánh bao… nữa mà nó thuần túy chỉ có cà phê nhưng được chăm chút một cách tỉ mỉ hơn, biết tạo ra một không gian tao nhã hơn, thu hút hơn…
CAFÉTERIA CA NHẠC
Để gần gủi hơn, thu hút khách hơn và cũng mang tính giải trí hơn, một số nơi đã ổ chức hình thức phòng trà ca nhạc theo dạng Cafétéria. Cafétéria rộng thoáng hơn những “Tháp ngà” La Pagode, Brodard, Givral, Continental… nơi đây không phải chổ để trầm tư, bàn luận chuyện đời mà hoàn toàn là chổ vui chơi giải trí.
Trên đường Bùi Viện đầu những năm 60 mọc ra một cái quán với tên là Phòng trà Anh Vũ. Tuy là phòng trà nhưng có thiết kế một sân khấu nhỏ vừa cho một ban nhạc bỏ túi đệm đàn cho những ca sĩ tăm tiếng được mời đến trình diễn như Bạch Yến, Mai Hương, Duy Trác, Cao Thái… Lúc đó phòng trà Anh Vũ là điểm hẹn của nhiều người dân Sàigòn cũng như những văn nghệ sĩ sinh sống tại đây. Con đường chật hẹp Bùi Viện bổng đêm đêm sáng lên rực rở ánh đèn Anh Vũ, người xe tấp nập đông vui.

Một Cafétéria khác theo cách của Anh Vũ cũng đã mọc lên bên cạnh rạp Ciné Việt Long (trên đường Cao Thắng) với tên Phòng trà Đức Quỳnh. Ca sĩ kiêm nhạc sĩ tóc dài Đức Quỳnh là chủ nhân của cái Cafétéria nầy. Đức Quỳnh với cây Piano và giọng ca trầm ấm của ông và những ca sĩ Minh Hiếu – Thanh Thúy, Phương Dung đã thu hút một số đông người yêu nhạc đêm đêm đến đây vừa giải khát vừa giải trí một cách tao nhã.


Cà phê Anh Vũ
Rồi tiếp theo là cà phê Cafétéria Jo Marcel, trên đường Hai Bà Trưng, Đêm Màu Hồng trên đường Tự Do (nay là đường Đồng Khởi) thi nhau mọc lên đẩy “Nền văn hóa ẩm thực” cà phê lên một tầm cao hơn, tức vừa uống cà phê vừa được thưởng thức những ca khúc do các ca sĩ, nhạc sĩ có tiếng trình bày. Một Phòng trà ca nhạc khác cũng khó quên chính là phòng trà Bồng Lai nằm trên sân thượng của Nhà hàng Kim Sơn mở cửa hàng đêm từ 9 giờ tối. Ở đây khách thường xuyên được nghe giọng ca vàng đương thời, ấy là ca sĩ Anh Tuyết với bài hát “Anh đèn Màu”.
Cũng như ca sĩ Cao Thái nổi tiếng với bài “Mexico”, ca sĩ Anh Tuyết mỗi lần trình diển “Anh đèn Màu” là bà hát với những dòng nước mắt. Nội dung ca khúc là nói về tâm trạng của người nghệ sĩ là ca hát để người mua vui để rồi khi ánh đèn màu tắt người nghệ sĩ lại một mình giữa cô đơn… Có lẽ do cái nội dung u buồn ấy đụng chạm vào nỗi lòng của bà nên bà rất ít khi chịu hát nhạc phẩm ấy. Nhưng hầu như đêm nào cũng có người yêu cầu, trừ những người thân quen bắt buộc phải đáp ứng, còn thì Anh Tuyết xin lỗi từ chối khéo.
LẠI QUAY CÀ PHÊ VỚ ĐÔNG VUI
Sau ngày 30/4/75 mừng vui trước ngày đất nước thanh bình, Sàigòn lại rộ lên phong trào cà phê hè phố. Những quán cốc che tạm tấm bạt bên lề đường với những chiếc ghế gỗ lùn làm chổ tụ họp của các thanh niên vui đón những ngày hạnh phúc mới. Vòng quanh Hồ con Rùa, xuống đến Phạm Ngọc Thạch, quẹo qua Nguyễn Đình Chiểu có hàng mấy chục “túp lều” cà phê như thế mọc lên san sát bên nhau.
Trên đường Trần Quốc Thảo gần Hội Văn Nghệ, một số anh em văn nghệ cũng mở quán cà phê cóc bên vệ đường để anh em hội tụ, gặp gở sau khi chiến tranh đã kết thúc, thành phố Sàigòn hoàn toàn được giải phóng. Chỉ là cà phê hè phố nhưng đông vui, uống một cốc cà phê siêu, cà phê vớ nhưng thoải mài ngồi cả ngày cũng chẳng ai rầy rà. Sau khi hết tiếng súng nổ, hết hỏa châu đầy trời, hết bắt lính, thanh niên, sinh viên Sàigòn vui vẻ chào đón những ngày đông vui ngoài phố. Và các ‘quán cốc liêu xiêu một câu thơ” bên các vĩa hè là chổ dừng chân để… “tám” đủ thứ chuyện trên trời dưới đất.
Chỉ có ai ở tuổi thanh niên vào thời điểm lịch sử đó mới thấy được cái thú ngồi quán cà phê bụi lụp xụp mà hầu như đường nào cũng có. Có người còn có thuốc Ruby, Con Mèo để phì phà bên ly cà phê vớ nhưng để… phiêu bồng hơn một số lớn thanh niên chơi… “bốc – lăn – se” tức thuốc vấn. Anh nào cũng thủ sẵn một bọc trong túi xách để sẳn sàng bày ra cho bạn bè tha hồ vừa bốc vừa lăn vừa se vừa liếm vừa dán rồi phì phèo nhả khói.
Cà phê quán cóc (nhảy nay chổ nầy mai chổ khác như cóc nhảy ấy mà) thời ấy được coi như thời huy hoàng lãng mạn nhất của nền… văn hóa ẩm thực cà phê cóc Sàigòn. Ban ngày đã rộn ràng như thế đến đêm bên những ngọn đèn dầu lù mù loanh quanh những con đường trong thành phố cũng có những quán cóc để dân mê cà phê, mê hòa bình được tận hưởng những giờ phút, sảng khoái, thanh bình, yên ả nhất của đời mình.
VÀ CÀ PHÊ ĐƯƠNG ĐẠI
Cà phê vốn cùng đi với con đường lịch sử, mỗi một thời kỳ nó có một hình thức thể hiện bản chất và hình thái riêng. Trong khoảng 30 năm sau ngày đất nước thống nhất bước đường của cà phê đã có những bước tiến rõ rệt. Bây giờ là thời kinh tế thị trường, nghề kinh doanh cà phê không còn ở giai đoạn cà phê Tàu ngồi chân trên chân dưới mà húp cà phê vớ trong chiếc đĩa sứ cũ kỷ hay kiểu cà phê lề đường tuy vui nhưng vi phạm luật giao thông lấn chiếm lòng lề đường.
Kinh doanh cà phê bây giờ phải có vốn hàng tỷ bạc. Vì nó không còn ở dạng Cafétéria nữa mà nó là Bar café, bề thế hơn, sang trọng hơn. Cơ ngơi kinh doanh mỗi nơi mỗi thể hiện một phong cách riêng để lưu giữ một số khách hàng riêng.

Chỉ cần đến Bar café Gió Bắc, Ciao café, Window’s café, Spa café ở vòng quanh hồ Con Rùa thôi đủ thấy người kinh doanh phải bỏ ra một số tiền lớn cở nào để kinh doanh dịch vụ buôn bán món hàng đơn giản từ những hạt cà phê đen tuyền thơm ngát đó. Ngoài việc uống cà phê khách còn có thể nhăm nhi một ly Cocktail thấm mát đầu lưỡi hay một cốc rượu nhỏ Martell, Hennessy nồng nàn vào những buổi chiều.
Cà phê Sàigòn bây giờ sang hơn, thời thượng hơn dành cho một thành phần của cư dân có thu nhập cao hơn. Và bạn có bao giờ thử một buổi chiều đi vào một Bar café chưa? Đó sẽ là một không gian mát rượi chờ đón bạn. Gọi cà phê hay một cốc rượu nhỏ ngồi đó nghe tiếng nhạc nho nhỏ và bạn cũng chẳng cần nhìn ra khung cảnh bên ngoài làm chi.
Ở đây có biết bao “cánh hoa” đẹp: các cô phục vụ bàn, các em PR và những người đẹp từ bốn phương trời ‘đáp nhẹ” về đây. Cà phê và rượu sẽ còn phê hơn khi bạn sẽ mản nhản với những đôi chân dài chập chờn trong thứ ánh đèn mờ ảo như ru bạn vào những giấc mơ đến dại khờ… Giá cà phê ở những nơi nầy tất nhiên là hơi đắc, không biết vì tại chổ ngồi sang, vì cà phê sản xuất từ trên Sao Hỏa hay tại các chiếc áo lửng hai dây và những cái chân dài.

Trương Ðạm Thủy
 

Shakhi Viet

Active Member
Tôi sống ở HN, hồi 1983 (trước đổi mới) có dịp đi TpHCM chơi. Lúc đó ở HN phải đổi gạo để lấy bánh cuốn ăn chi với nước mắm thì ở SGN ăn bánh cuốn với chả, trứng, rau sống. Trong buổi sáng, bao giờ cũng uống cafe, uống rất thoải mái, công khai chứ làm gì có chuyện "lấm lét... " như bài viết trên. Không riêng coffee, bia cũng khá sẵn ở SGN thời đó. Tô nhớ là người SGN lúc đó cứ gọi là "lade", bây giờ mới hiểu là do chữ "LAGER" đọc theo tiếng Pháp mà ra.\
SGN nhứng năm 1976-1986, nếu so với thời Hòn ngọc viễn đông, thì đúng là có mức sống thấp hơn hẳn. Nhưng so với HAN lúc đó thì vẫn cao và thoải mái hơn hẳn.
Mong được đọc các bài viết chính xác hơn.
 
Tôi sống ở HN, hồi 1983 (trước đổi mới) có dịp đi TpHCM chơi. Lúc đó ở HN phải đổi gạo để lấy bánh cuốn ăn chi với nước mắm thì ở SGN ăn bánh cuốn với chả, trứng, rau sống. Trong buổi sáng, bao giờ cũng uống cafe, uống rất thoải mái, công khai chứ làm gì có chuyện "lấm lét... " như bài viết trên. Không riêng coffee, bia cũng khá sẵn ở SGN thời đó. Tô nhớ là người SGN lúc đó cứ gọi là "lade", bây giờ mới hiểu là do chữ "LAGER" đọc theo tiếng Pháp mà ra.\
SGN nhứng năm 1976-1986, nếu so với thời Hòn ngọc viễn đông, thì đúng là có mức sống thấp hơn hẳn. Nhưng so với HAN lúc đó thì vẫn cao và thoải mái hơn hẳn.
Mong được đọc các bài viết chính xác hơn.
Cám ơn bác!
Giai đoạn trên em không có trải nghiệm gì nhiều. Ý kiến của bác lạ so với những điều em đang tìm hiểu. Bác có thêm thông tin gì về giai đoạn này tản mạn cùng em bác nhá!

Gửi bác thêm một truyện ngắn của Quý Thể về giai đoạn này.


CÀ PHÊ MÙA XUÂN


QÚY THỂ



Mấy năm sau giải phóng thanh niên miền nam không có việc làm, suốt ngày thường la cà quán cà phê. Tôi tuy không ghiền mà cũng không chịu chất caféine, uống vào thấy trong người xôn xao khó chịu, song vẫn ở trong số ấy. Thời kì này sáng nào tôi cũng bắt chước ngồi quán cà phê, uống li chanh muối, trà đá, nghe chuyện và góp chuyện tào lao cho qua ngày, trưa về nhà kiếm miếng cơm, ngủ một giấc, chiều lại ra quán cà phê ven đường ngồi cho đến tối, cuộc đời lây lất không lối thóat kéo dài tưởng chừng vô tận .
Tôi đã từng đi qua nhiều đồn điền cà phê hoa nở trắng cả trời chiều tây nguyên. Cà phê nước ta từ xưa đã nổi tiếng trên thế giới . Ở Paris có nhiều quán trương bảng “Café Moka Banmêthuột”, để câu khách. Cà phê là một mặt hàng xuất khẩu mỗi năm hàng trăm ngàn tấn, thế nhưng không hiểu tại sao mấy năm đó cà phê rất khan hiếm, quí như vàng, và uống cà phê bị xem là một tội lớn. Có lần ở chính kinh đô cà phê Buôn ma Thuột, buổi sáng ba giờ tôi bị bọn ghiền đánh thức dậy đi uống cà phê chui. Hỏi tại sao phải đi uống giờ khuya khoắt này? Người ta nói, ở đây cấm bán cà phê. Đi buôn cà phê từ cao nguyên xuống đồng bằng, mỗi lần năm ba kí giấu trong người, chỗ hóc hiểm nhất mới qua mặt được mấy trạm kiểm soát. Buôn “Cà” là cái nghề mới cho người ít vốn .
Đem cà phê đi đường phải giấu chui giấu nhủi sợ bắt bớ, sợ phạt nên hạt cà phê đã hạ sơn thì rất quí, giá đắc lắm. Người bán hàng độn đủ thứ, bắp rang vàng, quả cau già sắc lấy nước, đậu đen rang cháy xay trộn chung với một ít cà phê nguyên chất lọc ra thành thứ nước khen khét đen đen, uống chỉ có cái vị đắng, phảng phất chút hương vị cà phê. Thế nhưng mọi người đã quen, thấy rất ngon, và cũng “phê” như cà phê thứ thiệt ! Sau này được uống cà phê nguyên chất lại thấy không bằng cà phê dỏm
Có lần tôi đang ngồi khuấy li chanh muối, chưa kịp uống bổng thấy mọi người rùng rùng bỏ chạy. Tôi không hiểu chuyện gì cũng chạy theo. Sau mới biết công an phối hợp với quản lí thị trường, thuế vụ đi dẹp quán cóc lề đường. Khi tình hình trở lại yên, thì li nước chanh quí giá của tôi đã bị ai đó uống hoặc đổ đi rồi. Tôi đem cái li không đến khiếu nại với cô Thi chủ quán thì được nghe giải thích một cách hòan tòan vô trách nhiệm : Quán không biết, đó là luật hè phố, của ai nấy giữ, mất ráng chịu ! Tôi nhớ lại lúc chạy lọan ai cũng bê theo li nước của mình chỉ có tôi là không. Lần sau tôi đã có kinh nghiệm, khi bỏ chạy nhớ đem theo thức uống. Cứ vài ba hôm lại có một lần quán bị tập kích. Khách hàng đã quen với cảnh này nên bảo tòan được tài sản của mình. Chỉ có cô chủ quán khi thì mất cái bàn, cái ghế, lúc mất mấy cái li, cái phin. Tôi thấy cô Thi ngồi tiếc của khóc tội nghiệp lắm. Tôi hỏi :” Sao không đi xin lại ?” Thi nói :” Xin sao được, phải nộp phạt, em không có đủ tiền “ Thế là lần sau. thóang bóng công an đi dẹp quán cóc lề đường, tôi đứng lên đem li cà phê của mình giấu sau gốc cây bàng bên đường. Tôi ra tay nghĩa hiệp giúp nàng dọn dẹp, bê cái bàn cái ghế chạy vô hẻm. Bão táp đi qua, tôi được nàng Thi liếc mắt đưa tình, cười tặng một cái thật tươi. Hình như món nợ tình bắt đầu từ cái ánh mắt nụ cười ấy. Sau này có mấy tên nữa cũng noi gương tôi xúm vào giúp dọn quán. Bọn chúng tòan là những vận động viên tài ba, nên nếu có đồng hồ bấm giây đo thời gian, chỉ trong vòng bốn tới năm giây, một cái quán sờ sờ biến đi mất như chưa từng hiện hữu trên đời. Thực đúng là “sắc sắc không không”Nhờ thế nên sau nhiều lần bị tập kích bất ngờ phe ta vẫn không thiệt hại gì về người về của. Dân cà phê biết cách đối phó thì công an cũng biết rút kinh nghiệm. Và tôi là nạn nhân đầu tiên của họ.
Có lần đang một tay xách mười cái ghế nhựa, lọai ghế lồng vào nhau, tay kia kéo bốn cái bàn nhựa, phi thân như bậc cao thủ võ lâm, bay vô ngõ hẻm thì một cú đập như trời giáng, tôi bị đẩy lên xe cùng với mọi thứ đồ nghề lỉnh kỉnh của cà phê vỉa hè, lò, phích, son, nồi, li tách, chén, muỗng, phin cà phê của cả một đọan đường này. Lần đó chiến công của công an là thu được rất nhiều chiến lợi phẩm và chỉ bắt được một tù binh, ấy là tôi !
Đây là lần thứ hai tôi bị dây dưa với công an. Lần thứ nhất cách đây đã lâu, lúc đó tôi là sinh viên trường đại học Luật khoa cái trường rất danh giá, đi biểu tình chống ông Diệm bị tóm cổ về công an quận ba, trên đường Lê Văn Duyệt. Khi ấy tôi vào tù một cách hiên ngang, dù sao tôi cũng là một thanh niên yêu nước. Tên đại úy Cảnh sát xét giấy tờ thấy tôi trưng ra cái thẻ sinh viên luật năm thứ ba, thời đó hiếm lắm, hắn tỏ thái độ kính trọng ra mặt, không dám nạt nộ hỗn xược. Lần này tôi đến công an không được vẻ vang gì cả. Hiện tại trước mắt công an và những người đi đường tôi chỉ là một tên đầu đường xó chợ, du thủ du thực, không có nghề nghiệp chính đáng, bám vào hè phố, làm cái nghề hạ cấp để sống. Trước tiên tôi bị sỉ vả nặng nề về cái tội ngoan cố, nhiều lần chiếm lề đường buôn bán bất hợp pháp không chịu tìm nghề nghiệp chính đáng làm ăn, không thấm nhuần cái câu “Lao động là vinh quang” Có một cậu công an, chỉ đáng tuổi em út của tôi lên mặt dạy đời , chửi bới tôi một cách văn hoa và đầy chất chính trị :” Giờ này bao nhiêu thanh niên đang xã thân giúp nước, còn anh, một thanh niên thân dài vai rộng lại chỉ trông vào việc mua gian bán lận mà sống” Tôi phải làm bản kiểm điểm. Tôi thuộc hạng văn hay chữ tốt thế mà viết đi viết lại cái bản kiểm điểm hai trang giấy học trò đến lần thứ bảy mới xong. Sau đó tôi còn bị lăn tay, chụp hình, và làm mọi thủ tục như một tội phạm nguy hiểm, cuối cùng nộp phạt rồi mới được cho về. Tôi cứ tưởng người ta làm theo thủ tục và cho có lệ, xếp hồ sơ để đó vài năm sau thì hũy. Song không phải như thế, Cái gọi là “ Am ảnh màu xám tro” này còn theo tôi dài dài, nó tồn tại mãi trong tờ lí lịch .
Lúc trở về kể lại cái nỗi đọan trường cho Thi nghe, không được một câu an ủi lại còn bị nàng cự nự :” Chậm chạp quá, chậm như rùa , đàn ông con trai gì mà lề mề còn hơn đàn bà đẻ . Ai cũng chạy thóat sao anh lại bị tóm đầu ? Có phải anh là con gà chết không ?” Hình như tôi thuộc hạng người mà y học và triết học gọi là bọn masochiste (Khổ dâm) tôi chỉ khóai người làm tôi khổ, hành hạ tôi, như cái cô Thi ba mươi hai tuổi, có chồng đang học tập cải tạo và hai đứa con một trai một gái hoang như quỉ và chúng rất ghét tôi này.

Thú thật trước đấy tôi chưa để ý đến Thi. Nàng đẹp hay xấu tôi cũng chẳng quan tâm. Thực rất lạ, từ cái ngày cuộc sống vô định cực nhọc kết nối tôi với nàng, và nhất là từ khi bị nàng làm khổ tôi lại bắt đầu yêu nàng, bị hành hạ và khổ vì nàng bao nhiêu yêu nàng bấy nhiêu. Chồng Thi là sĩ quan quân đội Cọng Hoà. Nàng là một thiếu phụ cô đơn. Tôi khổ vì Thi và khổ thêm vì hai đứa bé một trai một gái chín mười tuổi này. Chúng lại không ưa gì tôi. Tôi cho đó là lẽ tự nhiên. Tôi cũng chẳng tìm cách mua chuộc cảm tình của chúng. Tôi nghĩ mình đã cướp mất vợ người ta rồi còn hai đứa con thì để lại cho anh ta. Bọn trẻ con không cha này thường rất khôn . Chúng mở trận tuyến giám sát ông chú với bà mẹ. Hình như lúc nào cũng có một đứa theo dõi chúng tôi. Lúc đó tôi óan chúng lắm, sau nghĩ lại thấy nhờ có thế cuộc tình thêm thú vị. Chúng tôi lén lút hôn nhau ở dưới bếp, chỗ rửa mấy cái phin , sau hè, chỗ cầu tiêu, trên gác, sau cánh cửa tủ, ở ngòai hiên nhà dưới đêm trăng, trên nóc nhà giữa mưa khi chúng tôi lên dọi nhà còn Thi đứng dưới đưa mấy viên ngói...Sáng sớm bọn trẻ con thường ngủ muộn, chúng tôi được tự do vài giờ. Chúng nó dậy thì hết. Lễ lạc chúng nó không muốn đi chơi thì mẹ và ông chú tốt bụng đều tỏ ra sốt sắng hào phóng cho tiền khuyến khích chúng đi chơi xa...
Tôi thâm nhập khá sâu vào ngành cà phê lề đường. Tôi biết nơi mua cà phê hạt đem về rang, đi xay, thời đó tất cả điều này đều phải lén lút. Tôi biết cách pha chế chất độn, tôi biết cách thức mấy cô hàng cà phê câu khách và tôi cũng biết luôn cách thức bọn chuyên đi uống cà phê “cố sĩ ” là kí sổ, đầy sổ rồi chạy. Cuộc tình ấy tưởng đâu yên xuôi không ngờ thời thế đổi khác, cuộc sống đi lên, người ta không uống cà phê vĩa hè nữa, lúc này phải có phòng ốc nhà cửa khang trang, máy lạnh, nhạc dĩa, vidéo... Cà phê vĩa hè tàn tạ dần dần rồi chết .
Chồng nàng học tập cải tạo cũng vừa mãn hạn về, thấy anh ta tôi đâm ra thương, đó thực sự là một người đàn ông tốt, người chồng tốt, người cha tốt, tóm lại anh ta hơn tôi nhiều lắm. Có một lần, buổi tối đạp xe qua trước nhà nàng, nhìn vào thấy chồng Thi hai tay bế hai đứa con. Hình ảnh tình phụ tử ruột rà đó khiến tôi cảm động, tỉnh ngộ. Không hẹn mà tôi và Thi chuyển từ trạng thái tình yêu thành tình bạn. Mọi việc khá suôn sẻ. Về sau đôi khi đến nhà nàng gặp lại Thi , thấy nét mặt, cử chỉ, thái độ nàng bình thản, đối đải với tôi trước mặt chồng một cách đúng mức, không lạnh nhạt, không khắng khít quá đáng. Tôi rất khâm phục. Tôi khâm phục chung cả giới nữ, đối với tôi phụ nữ tinh tế tinh quái một cách bẩm sinh, ai cũng là diễn viên ưu tú, thiện nghệ, có người lên tới bực thượng thừa, nghệ sĩ nhân dân diễn xuất không bằng ! Nhiều khi tôi không làm sao tin được kia là cô Thi, người đã từng làm đủ trò bậy bạ với mình nay làm bộ dửng dưng, hay thực là hay. Nghe Thi kể về tôi chồng nàng tỏ ra rất quí mến tôi, tôi chắc cũng nhờ cái miệng có làn môi mọng, khoé miệng xếch, lúc nào trông cũng nũng nịu của Thi. Đàn ông vốn khờ khạo bẩm sinh bị phụ nữ xỏ mũi, qua mặt dễ dàng.
Có lần anh ta bảo vợ pha cà phê mời tôi. Anh nói thêm :“ Cho hai li đặc biệt cô chủ quán !”. Thấy vợ pha có một cốc, anh bảo làm thêm cốc nữa . Thi biết rõ tôi không uống cà phê. Nàng giỡn với tôi :
- Uống gì ? Cà phê đen hay cà phê đỏ ?
“Cà phê đỏ” là mật mã (Password) của hai chúng tôi nói về tình trạng giới nghiêm hàng tháng của người nữ. Anh ta chẳng hiểu cà phê đỏ là gì. Hỏi : “Bây giờ có lọai cà phê đỏ sao ?” Thi và tôi đều quay mặt nín cười .

Nguồn: Newvietart.com

Về nhà văn Quý Thể đăng trên tập san Áo Trắng: Trò chuyện với NV Quý Thể
 

Shakhi Viet

Active Member
Cám ơn kimbinhhoanvn20!
Mình không có tài liệu gì, chỉ có "trải nghiệm" của bản thân về SGN khi đó, hơn nữa năm 1983 mình mới có 12 tuổi nên có thể chưa hiểu hết.
Cảm giác của mình lúc đó là choáng ngợp, bởi vì sự khác biệt giữa HN và SGN về:
- Màu sắc, HN thì có mầu trầm trầm, SGN thì rực rỡ
- Mùi vị, HN thì thoang thoảng, SGN thì sốc.
- Nhịp điệu, HN thì thông thả, SGN thì hối hả
- Tiện nghi, HN thì mộc mạc, SGN thì "xa hoa"
...
Bây giờ thì sự khác biệt đã rút ngắn lại khá nhiều.
 
Cám ơn kimbinhhoanvn20!
Mình không có tài liệu gì, chỉ có "trải nghiệm" của bản thân về SGN khi đó, hơn nữa năm 1983 mình mới có 12 tuổi nên có thể chưa hiểu hết.
Cảm giác của mình lúc đó là choáng ngợp, bởi vì sự khác biệt giữa HN và SGN về:
- Màu sắc, HN thì có mầu trầm trầm, SGN thì rực rỡ
- Mùi vị, HN thì thoang thoảng, SGN thì sốc.
- Nhịp điệu, HN thì thông thả, SGN thì hối hả
- Tiện nghi, HN thì mộc mạc, SGN thì "xa hoa"
...
Bây giờ thì sự khác biệt đã rút ngắn lại khá nhiều.
Cám ơn bác đã tản mạn cùng em.
Sự giao thoa văn hóa, sự dịch chuyển giữa các vùng miền khiến cho sự chênh lệch đã được rút ngắn. Dù vậy phong cách thưởng thức cà phê của người Sài Gòn vẫn rất khác so với Hà Nội.

Tiếp tục một bài viết của Báo Tuổi Trẻ của hai tác giả Quốc Việt, Lan Phương.


Hành trình cà phê Việt - Kỳ 5: Sài Gòn, cà phê xưa...




TT - Chưa rõ những ly cà phê đầu tiên ở Sài Gòn được pha thế nào, nhưng theo cố nhà văn Sơn Nam, miền đất mới này đã xuất hiện sớm hai quán cà phê do người Pháp làm chủ là Lyonnais (trên đường Lý Tự Trọng nay) và Café de Paris (trên đường Đồng Khởi) từ năm 1864. Và cà phê dần hình thành một dòng chảy văn hóa, bạn tri âm, tri kỷ của bao lớp người Sài Gòn ...

Khi chiến hạm Pháp tiến vào Sài Gòn, những giọt cà phê hương bơ cũng dần chảy trên miền đất mới này. Trong ký sự Đông Dương ngày ấy, tay bút phiêu bạt Claude Bourrin kể lại một thời bàn cà phê xếp kín chỗ quanh Nhà hát lớn. Giờ đông khách, mùi cà phê ngào ngạt khắp khu vực.

Sài Gòn tạp pín lù của Vương Hồng Sển:

“... Từ 1950 cho đến trào ông Diệm, khi quán cóc trước cửa Thảo cầm viên chưa bị trục xuất để chỉnh trang vườn bách thảo và đô thành. Lúc ấy nơi trước cửa vườn mé bên Ba Son có một quán nhỏ bán cà phê, người chủ quán vì tai nạn chiến tranh bị cắt mất một chân nên có biệt danh là “quán thằng Cụt”. Cụt ta đi nạng chống và mỗi lần xê dịch vẫn nhảy cò thọt còn mau lẹ hơn chim nắc nước. Và Cụt sở trường pha cà phê rất đậm rất ngon, cà phê buổi sáng hơi nghi ngút giá chỉ có một đồng rưỡi một tách không sữa”.
Trên các đường phố khu vực này, nhiều quán cà phê cũng nhanh chóng xuất hiện như Café de la Musique, Grand Café de la Terrasse, Café des Fleurs... để phục vụ kẻ viễn chinh lẫn người bản địa sớm hấp thụ lối sống phương Tây.

Cặp mắt tinh tế của tác giả cũng nhìn thấy hình ảnh trong khi các ông chồng người Pháp tụ tập tán gẫu ở các quán cà phê này, thì các quý phu nhân đi dạo trên những chiếc xe ngựa leng keng.

Sau đó, nhiều bà quay xe về quán để đón phu quân vẫn đang mải mê với thứ nước thơm nồng. Claude Bourrin cũng không quên nhấn nhá kể lại những lời bình phẩm nhỏ to, mà đôi khi thô tục, của những anh lính viễn chinh về các quý bà người Pháp vốn như hoa hiếm ở Sài Gòn thuở ấy...

Trong chiến tranh 20 năm, một góc khác của Sài Gòn, nhà báo Edith Lederer (hiện là trưởng phân xã AP tại Liên Hiệp Quốc), trong chuyến thăm lại Sài Gòn năm 2010 đã ở lại khách sạn Caravelle và kể lại: “Văn phòng của AP nằm trên tòa nhà Eden. Nhà báo chúng tôi ngồi ở Givral, Brodard, nói đủ chuyện trên đời và nghe ngóng tin tức”.

“Trục cà phê” gồm ba quán La Pagode, Givral, Brodard đã từng một thời là trung tâm báo chí của Sài Gòn. Ở đó, những tên tuổi hàng đầu thế giới về báo chí như Peter Arnett, Larry Burrows... đều từng có thời gian la cà, chờ đợi và chiến đấu với những thông tin nóng bỏng nhất của chiến tranh Việt Nam. Cũng ở cái “trục cà phê” đó, “tướng Givral” Phạm Xuân Ẩn cũng quanh năm la cà cà phê Givral ngay dưới chân văn phòng Hãng tin AP. Ông là phóng viên tờ Time, một nhà tình báo xuất sắc nhất của Việt Nam trong suốt cuộc chiến.

Bây giờ La Pagode không còn, Givral cũng ngừng hoạt động cùng với tòa Eden. Nhưng người Sài Gòn đi ngang qua khu vực ấy vẫn thấy Brodard sáng đèn và tấp nập cà phê ngay ngã ba Đồng Khởi - Nguyễn Thiệp. Tên Brodard vẫn còn đây nhưng “gu” cà phê đã chuyển sang phong vị Gloria Jean’s. Người Việt, khách Tây hòa vào nhau bên ly cà phê. Mỗi năm, khi những người xưa cũ của cuộc chiến tranh Việt Nam quay lại thăm thành phố nhiều ký ức này, Brodard - Gloria Jean’s vẫn làm dấy lên những vùng rất rõ nét trong tâm trí họ. Ở đó, đám nhà báo ngồi, chính trị gia đi lại, thông tin khuấy động, Sài Gòn rung chuyển khi những trang tin đến tay thế giới.

2

Bên cạnh những quán cà phê gắn liền lịch sử, Sài Gòn xưa còn có những quán cà phê bình dân như bộ mặt khác rõ nét và chân thực về người xứ này. Thầy giáo Hoàng Hữu Phước bồi hồi nhớ mãi thuở cầm cốc ra quán cà phê Năm Dưỡng mua cho cha. Ông kể: “Bà chủ cho cả cái vợt đầy bột cà phê nhúng vào bình, vợt lên xuống rồi đổ cà phê ra cốc. Xong bà lại tống nước sôi vào, tiếp tục vợt và đậy nắp lại. Ba tôi ghiền, ông ngoại tôi cũng ghiền”.

Quán cà phê Năm Dưỡng ngày ấy nằm trên đường Nguyễn Thiện Thuật. Cả cái kiểu pha cà phê dùng vợt (còn gọi là “cafe vớ” - vì vợt để bã giống cái vớ) cũng hiếm còn thấy ở Sài Gòn. Sau này bôn ba khắp nơi, ông Phước vẫn nhớ cà phê vợt ngày nào: “Đó là cách pha của các chàng cao bồi, vì khi nấu nước nóng, hương khói tỏa ra nồng nàn cả phòng...”.

Đạo diễn Tường Phương, ngày xưa còn là chàng sinh viên văn khoa Sài Gòn, nhớ mãi chuyện muôn năm cũ: “Bà lão bán cà phê bị hô nhưng lúc nào cũng cười toe toét. Bà biết hết từng người thích gì. Tay vợt vợt cho cà phê ra nước, ông bà bán hàng chẳng lúc nào ngớt chuyện với khách. Quán Năm Dưỡng bình dân nên đông khách, có lúc chẳng có ghế ngồi. Cà phê thơm thiệt thơm”.

Với Tường Phương, cà phê vỉa hè là nơi đã cho ông gặp được những người quan trọng nhất của đời làm phim. Một lần, khi đang tìm hiểu để quay bộ phim tài liệu về quái kiệt cải lương Ba Vân, ông đã được chính nghệ sĩ già này nhắc nhở về những ly cà phê buổi sớm.

Nhà ở Bàu Sen, ông Ba Vân dậy sớm ra chợ Bàu Sen uống cà phê và nhìn người ta chở bông, chở rau quả, rồi buồn vui chuyện trúng mùa, thất bát. Ly cà phê buổi sớm đã giúp ông lão cảm nhận nhân gian thế sự chảy trong máu mình để thăng hoa trong vai diễn.

Ở Sài Gòn, người ta thấy ở quán cóc vỉa hè hoặc tận xó xỉnh nào đó, những bậc thầy văn chương, thi sĩ như Sơn Nam, Bùi Giáng... ngồi cạnh những người xích lô lam lũ. Ông Hoàng Hữu Phước tâm sự: “Hồi ông Bùi Giáng còn sống, đám sinh viên tụi tôi hay đến quán cà phê trong ngõ, đối diện với chùa Kỳ Viên đường Nguyễn Đình Chiểu và gặp ông ngồi đó với ba bốn ông bạn gần tuổi nhau. Rồi tôi cũng thấy ông xích lô bỏ xe ngay đó, vác điếu cày vô ngồi gọi cà phê trong quán”.

Rồi bao chuyện đất và người Nam bộ đã đến với ly cà phê cùng nhà văn Sơn Nam. Cuộc sống và giọt mồ hôi anh xe kéo, ông bốc vác cũng từ ly cà phê ấy mà trôi vào từng dòng tác phẩm của cụ Vương Hồng Sển, vào từng dòng thơ say tỉnh, hư thực của nhà thơ Bùi Giáng.

3

Người Sài Gòn thập niên 1960-1970 cũng khó quên những quán cà phê nghèo khó, thô mộc, mà đôi khi dữ dằn ở những “ốc đảo” Mả Lạng, quận 4 của người nghèo khó, sa cơ lỡ vận, trốn quân dịch, kể cả anh chị giang hồ, bán sương ...

Sâu trong hẻm hun hút, tăm tối như hang rắn có những quán cà phê của bà Ba lé, chị Bảy mồ côi, đại ca Năm thọt. Người ta có thể chỉ mặc quần xà lỏn ngồi uống cà phê, sôi nổi chuyện tin đồn, bày kế trốn quân dịch và sẵn sàng chửi thề đủ thứ chuyện trên trời dưới đất.

Nhiều chủ quán không biết nửa chữ cắn làm đôi, nhưng luôn thủ sẵn cuốn sổ nợ cho người uống ghi nợ. Giá ly cà phê rẻ mạt mà lắm kẻ vẫn không trả nổi nợ. Cứ ít hôm chủ quán lại thở dài nghe tin tay anh chị, cô gái “buôn hương” nào đó ở xóm mình không thể trở về. Trang giấy ghi nợ đành phải xé đi vì người bất hạnh đã bỏ thân ở góc hẻm, đầu chợ lạnh lẽo nào đó...
 
Top