Gây nuôi động vật hoang dã vì mục đích thương mại: Có thực là giải pháp bảo tồn? Thứ bảy, 25/12/2010 07:25
(CATP) Nạn săn bắt và buôn bán trái phép động vật hoang dã (ĐVHD) đã và đang đẩy nhiều loài quý hiếm ở Việt Nam đến bờ vực tuyệt chủng. Trước tình hình đó, gây nuôi ĐVHD ra đời với mục đích bảo tồn, đa dạng sinh học cũng như đáp ứng nhu cầu thị trường một cách hợp pháp. Thế nhưng một câu hỏi được đặt ra: Liệu giải pháp này có thực sự hỗ trợ cho công tác bảo tồn hay càng làm tăng sức ép lên các loài ĐVHD?
VẪN SĂN BẮT TỪ TỰ NHIÊN
Những người khởi xướng mô hình trang trại cho rằng hoạt động gây nuôi thương mại sẽ làm giảm bớt nạn săn bắt trong tự nhiên, bởi vì ĐVHD gây nuôi cùng sản phẩm của chúng là mặt hàng thay thế hợp pháp, có chi phí đầu vào thấp, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và là công cụ hữu hiệu giúp xóa đói giảm nghèo cho các vùng nông thôn.
Tuy nhiên, có ý kiến khác cho rằng gây nuôi ĐVHD không làm giảm sức ép ĐVHD trong tự nhiên. Ngược lại, nhiều trường hợp động vật bị săn bắt trái phép từ tự nhiên được hợp pháp hóa trong các trang trại. Bên cạnh đó các trang trại gây nuôi luôn tiềm ẩn nguy cơ vật nuôi sổng chuồng và có thể truyền bệnh cho các cá thể loài trong tự nhiên, làm chệch hướng các nguồn lực bảo tồn.
Để kiểm chứng, Hiệp hội Bảo tồn ĐVHD (WCS) đã phối hợp với Cục Kiểm lâm Việt Nam thực hiện một cuộc nghiên cứu, khảo sát 78 trang trại tại Việt Nam. Kết quả cho thấy 22 loài đang được gây nuôi, trong đó có 12 loài bị đe dọa cấp quốc gia, 6 loài bị đe dọa trên toàn cầu, 4 loài được bảo vệ ở cấp quốc gia và 5 loài có tên trong phụ lục I của Công ước CITES.
Các trang trại gây nuôi ĐVHD với mục đích thương mại lại trở thành mối đe dọa đối với các loài ĐVHD trong tự nhiênCuộc khảo sát xác định có tới 42% số trang trại thường xuyên nhập ĐVHD làm con giống; 50% chủ trang trại thừa nhận con giống ban đầu có nguồn gốc tự nhiên, hoặc là con lai của cá thể tự nhiên và cá thể gây nuôi; 20% chủ trại thừa nhận có vật nuôi sổng chuồng, trong đó bao gồm những loài gây nguy hiểm đến tính mạng con người như trăn, rắn hổ mang, cá sấu, hổ...
Các nghiên cứu cũng phát hiện nhiều trang trại có liên quan đến hoạt động buôn bán trái phép ĐVHD, một số tiết lộ có bán các sản phẩm cho đầu nậu gần biên giới Trung Quốc để xuất khẩu trái phép. Ngoài ra cuộc nghiên cứu còn phát hiện một số trang trại thu mua ĐVHD từ các thợ săn chuyên nghiệp hoặc vận chuyển, nhập lậu ĐVHD và các sản phẩm của chúng, kể cả khi gây nuôi các loài có khả năng sinh trưởng nhanh, chi phí chăn nuôi thấp như trăn, lợn rừng, nhím, rắn... thì các trang trại vẫn nhập ĐVHD bị săn bắn từ tự nhiên.
LỢI NHUẬN VÀO TÚI AI?
Các trang trại gây nuôi ĐVHD thường cung cấp các sản phẩm xa xỉ như thịt, da và vật cảnh cho dân thành thị chứ không hề cung cấp nguồn dinh dưỡng nào cho cộng đồng dân cư làm nghề nông. Bên cạnh đó các trang trại gây nuôi còn hàng loạt tồn tại như biến động giá cả thị trường luôn ở mức cao, kiến thức về kỹ thuật chăn nuôi và chăm sóc sức khỏe thú y còn hạn chế, cơ chế hỗ trợ từ các cơ quan chức năng còn lỏng lẻo, tác động tiêu cực đến môi trường do việc khai thác các quần thể ngoài tự nhiên và hiện tượng vật nuôi sổng chuồng mang lại.
Vì vậy mặc dù tiềm năng lợi nhuận cao nhưng so với các chiến lược nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân vùng nông thôn hiện nay thì các trang trại gây nuôi ĐVHD vẫn là giải pháp không phù hợp. Với những kết quả nghiên cứu trên đã chứng tỏ các trang trại gây nuôi ĐVHD có tác động tiêu cực đến công tác bảo tồn quần thể loài trong tự nhiên. Về mặt lý thuyết, động vật gây nuôi có thể thay thế ĐVHD nhưng đòi hỏi phải có sự kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiểu biết về những tác động của thị trường và thị hiếu người tiêu dùng. Tiến sĩ Elizabeth L. Bennett - Giám đốc Chương trình giám sát nạn săn bắt và buôn bán ĐVHD của WCS - cho biết, thay vì hoạt động với mục đích bảo tồn, các trang trại gây nuôi ĐVHD vì mục đích thương mại trên thực tế lại trở thành mối đe dọa đối với các loài ĐVHD trong tự nhiên. Phân tích từ các báo cáo cho thấy tác động tiêu cực của các trang trại này lớn hơn nhiều so với những ích lợi chúng có thể đem lại.
Trang trại gây nuôi ĐVHD sẽ không đem lại lợi ích nào cho công tác bảo tồn nếu vật nuôi không hoặc hiếm khi được thả về thiên nhiên; không có các hoạt động nâng cao nhận thức về bảo tồn cho các trang trại; các trang trại không đóng góp kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn. Các loài vật chỉ thực sự được bảo tồn nếu chúng được thực hiện đúng vai trò trong hệ sinh thái tự nhiên.
Với tình hình như hiện nay, Việt Nam cần áp dụng nguyên tắc phòng ngừa, trong đó nhìn nhận được mối đe dọa nghiêm trọng tới các quần thể loài trong tự nhiên của các trang trại gây nuôi ĐVHD vì mục đích thương mại. Nghiêm cấm trang trại tiến hành gây nuôi các loài được bảo vệ có tên trong nhóm IB theo Nghị định 32/2006/NĐ-CP và những loài có nguy cơ bị đe dọa toàn cầu có tên trong Sách đỏ của IUCN. Cần có hình thức xử lý nghiêm khắc đối với những chủ trang trại vi phạm các điều luật bảo vệ ĐVHD. Các trang trại phải chịu trách nhiệm về tài liệu chứng minh nguồn gốc con giống được gây nuôi chứ không phải là các cơ quan thực thi pháp luật.
TRIỀU DƯƠNGNhững người khởi xướng mô hình trang trại cho rằng hoạt động gây nuôi thương mại sẽ làm giảm bớt nạn săn bắt trong tự nhiên, bởi vì ĐVHD gây nuôi cùng sản phẩm của chúng là mặt hàng thay thế hợp pháp, có chi phí đầu vào thấp, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và là công cụ hữu hiệu giúp xóa đói giảm nghèo cho các vùng nông thôn.
Tuy nhiên, có ý kiến khác cho rằng gây nuôi ĐVHD không làm giảm sức ép ĐVHD trong tự nhiên. Ngược lại, nhiều trường hợp động vật bị săn bắt trái phép từ tự nhiên được hợp pháp hóa trong các trang trại. Bên cạnh đó các trang trại gây nuôi luôn tiềm ẩn nguy cơ vật nuôi sổng chuồng và có thể truyền bệnh cho các cá thể loài trong tự nhiên, làm chệch hướng các nguồn lực bảo tồn.
Để kiểm chứng, Hiệp hội Bảo tồn ĐVHD (WCS) đã phối hợp với Cục Kiểm lâm Việt Nam thực hiện một cuộc nghiên cứu, khảo sát 78 trang trại tại Việt Nam. Kết quả cho thấy 22 loài đang được gây nuôi, trong đó có 12 loài bị đe dọa cấp quốc gia, 6 loài bị đe dọa trên toàn cầu, 4 loài được bảo vệ ở cấp quốc gia và 5 loài có tên trong phụ lục I của Công ước CITES.
Các trang trại gây nuôi ĐVHD với mục đích thương mại lại trở thành mối đe dọa đối với các loài ĐVHD trong tự nhiên
Các nghiên cứu cũng phát hiện nhiều trang trại có liên quan đến hoạt động buôn bán trái phép ĐVHD, một số tiết lộ có bán các sản phẩm cho đầu nậu gần biên giới Trung Quốc để xuất khẩu trái phép. Ngoài ra cuộc nghiên cứu còn phát hiện một số trang trại thu mua ĐVHD từ các thợ săn chuyên nghiệp hoặc vận chuyển, nhập lậu ĐVHD và các sản phẩm của chúng, kể cả khi gây nuôi các loài có khả năng sinh trưởng nhanh, chi phí chăn nuôi thấp như trăn, lợn rừng, nhím, rắn... thì các trang trại vẫn nhập ĐVHD bị săn bắn từ tự nhiên.
LỢI NHUẬN VÀO TÚI AI?
Các trang trại gây nuôi ĐVHD thường cung cấp các sản phẩm xa xỉ như thịt, da và vật cảnh cho dân thành thị chứ không hề cung cấp nguồn dinh dưỡng nào cho cộng đồng dân cư làm nghề nông. Bên cạnh đó các trang trại gây nuôi còn hàng loạt tồn tại như biến động giá cả thị trường luôn ở mức cao, kiến thức về kỹ thuật chăn nuôi và chăm sóc sức khỏe thú y còn hạn chế, cơ chế hỗ trợ từ các cơ quan chức năng còn lỏng lẻo, tác động tiêu cực đến môi trường do việc khai thác các quần thể ngoài tự nhiên và hiện tượng vật nuôi sổng chuồng mang lại.
Vì vậy mặc dù tiềm năng lợi nhuận cao nhưng so với các chiến lược nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân vùng nông thôn hiện nay thì các trang trại gây nuôi ĐVHD vẫn là giải pháp không phù hợp. Với những kết quả nghiên cứu trên đã chứng tỏ các trang trại gây nuôi ĐVHD có tác động tiêu cực đến công tác bảo tồn quần thể loài trong tự nhiên. Về mặt lý thuyết, động vật gây nuôi có thể thay thế ĐVHD nhưng đòi hỏi phải có sự kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiểu biết về những tác động của thị trường và thị hiếu người tiêu dùng. Tiến sĩ Elizabeth L. Bennett - Giám đốc Chương trình giám sát nạn săn bắt và buôn bán ĐVHD của WCS - cho biết, thay vì hoạt động với mục đích bảo tồn, các trang trại gây nuôi ĐVHD vì mục đích thương mại trên thực tế lại trở thành mối đe dọa đối với các loài ĐVHD trong tự nhiên. Phân tích từ các báo cáo cho thấy tác động tiêu cực của các trang trại này lớn hơn nhiều so với những ích lợi chúng có thể đem lại.
Trang trại gây nuôi ĐVHD sẽ không đem lại lợi ích nào cho công tác bảo tồn nếu vật nuôi không hoặc hiếm khi được thả về thiên nhiên; không có các hoạt động nâng cao nhận thức về bảo tồn cho các trang trại; các trang trại không đóng góp kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn. Các loài vật chỉ thực sự được bảo tồn nếu chúng được thực hiện đúng vai trò trong hệ sinh thái tự nhiên.
Với tình hình như hiện nay, Việt Nam cần áp dụng nguyên tắc phòng ngừa, trong đó nhìn nhận được mối đe dọa nghiêm trọng tới các quần thể loài trong tự nhiên của các trang trại gây nuôi ĐVHD vì mục đích thương mại. Nghiêm cấm trang trại tiến hành gây nuôi các loài được bảo vệ có tên trong nhóm IB theo Nghị định 32/2006/NĐ-CP và những loài có nguy cơ bị đe dọa toàn cầu có tên trong Sách đỏ của IUCN. Cần có hình thức xử lý nghiêm khắc đối với những chủ trang trại vi phạm các điều luật bảo vệ ĐVHD. Các trang trại phải chịu trách nhiệm về tài liệu chứng minh nguồn gốc con giống được gây nuôi chứ không phải là các cơ quan thực thi pháp luật.