Kính thưa toàn thể ace Vietpet !
Sau nhiều ngày tìm kiếm, đọc và tổng hợp, tôi đã sưu tầm từ nhiều nguồn được một số kiến thức chung xung quanh việc huấn luyện chó. Nay xin được biên tập, tổng hợp lại và gửi lên đây với mục đích duy nhất là chia sẻ cùng anh em, những mong chúng ta sẽ có thêm hiểu biết và nuôi dạy cún cưng của mình tốt nhất.
Xin trân trọng cảm ơn anh BUBBA cũng như toàn thể BQT đã động viên, khích lệ tôi trong quá trình sưu tầm, biên tập, tổng hợp tài liệu này.
Kính mong các bậc tiền bối chỉ dạy, đóng góp thêm để cộng đồng có được những kiến thức về huấn luyện chó hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn các tác giả, các nguồn mà tôi trích tài liệu.
Rất mong các bạn tạm thời không comment tại đây để việc post bài được liền mạch (thay vào đó là nhấn nút "thanks" để … đánh dấu rằng mình đã đọc" =))=))=))
Hoan2008
KIẾN THỨC CHUNG VỀ HUẤN LUYỆN CHÓ
(Tài liệu được tổng hợp, sưu tầm từ các nguồn)
1. Nguồn gốc của chó
Người ta coi chó là con vật đáng tin cậy nhất, được người thuần dưỡng và nuôi thả ở nhà. Sự kiện này diễn ra cách đây khoảng 30 - 40 ngàn năm về trước vào giữa thời kỳ đồ đá, thời kỳ xuất hiện chế độ mẫu hệ.
Chúng ta không biết được chính xác nguồn gốc tổ tiên của chó ngày nay và vì vậy phải đồng ý với ý kiến phần lớn của các nhà bác học đặt ra giả thiết rằng: chó và sói và chó rừng trước kia là tổ tiên của các loài chó đang sống ngày nay. Qua các số liệu khảo cổ học, dân tộc học và qua sự giống nhau về hình thái học, sinh vật học của chó với chó sói và chó rừng, đã chứng minh giả thiết đó là đúng.
2. Ngoại hình chung của chó
Thực tế chăn nuôi thú vật hàng nghìn năm đã chứng minh được rằng, giữa hình dáng bề ngoài, cấu tạo bên trong, những đặc điểm sinh vật học của thú và sức sinh sản của chúng, có sự phụ thuộc nhất định với nhau sự phân chia của khoa học động vật học, như về ngoại hình về cấu tạo (thể tạng) của thú sẽ làm sáng tỏ thêm sự phụ thuộc lẫn nhau này.
Ngoại hình, nghiên cứu về hình dáng và cấu tạo bên ngoài của thú, xác định mối quan hệ với nhau của hình dáng đó đối với các dấu hiệu sinh vật học và khả năng sử dụng được của thú.
Sự hiểu biết về ngoại hình và cấu tạo, cho phép ta nhận được đặc tính của những con vật khác nhau bằng cách đánh giá tương đối nhanh qua cách nhìn thông thường bằng mắt, nghĩa là cho phép ta xác định ngay được giống, giới tính, màu lông, tuổi của con vật, tính cân đối về hình dáng, dự đoán được loại hoạt động thần kinh cao nhất (tính khí) và đi đến kết luận có giá trị kinh tế của con vật. Để có sự hiểu biết chính xác hơn nữa về chó, người ta thường áp dụng cách đo sinh học đơn giản nhất.
Quan sát chó từ nhiều hướng khác nhau: phía trước, phía sau và hai bên sườn ở cự ly 3 - 4 m. Khi đó, chó phải đứng ở tư thế cân đối trên địa thế bằng phẳng và toàn thân dồn đều lên các đầu chi. Đặt thước đo chiều cao và thước dây chia độ đến cm vào gần chó một cách rất nhẹ nhàng để chó không có phản ứng tự vệ. Để xác định đặc tính vận động của chó, người ta thường cho chó đi hoặc chạy vòng quanh. Khái niệm ngoại hình của chó là toàn bộ cơ thể thống nhất của nó, song để cho tiện người ta thường quan sát ngoại hình gồm bốn phần: ngoại hình của đầu, cổ, thân và các chi. Trong mỗi phần người ta lại chia ra thành những mục (các phần của thân thể).
Ngoại hình của đầu: Xương sọ và xương hàm là phần chính của đầu. Đầu được chia thành những phần sau đây: gáy cùng với bờm gáy, đỉnh đầu, tai, trán; ở phần mõm có: mắt, sống mũi, đỉnh mũi, má, hàm trên và hàm dưới, môi, mồm và răng.
Về hình dáng: đầu thường có hình tròn, hình nhọn (chóp), hình vuông và hình chữ nhật. Mõm có thể là dóng mõm ngắn, mõm bình thường và mõm dài, nó tỷ lệ với chiều dài của trán. Mõm có hình cắt khác nhau như: thẳng, hóp, hếch và mõm dáng chó giữ nhà.
Tai: hình dáng và chiều dài của tai rất khác nhau và phụ thuộc vào sự phát triển của sụn vành tai. Phân loại tai ra thành tai đứng (tai chổng), tai chúc, tai cúp và còn có loại tai xẻ (tai xẻ nhân tạo).
Mắt: biểu thị đặc tính theo màu sắc, hình dáng, khe mắt, chiều sâu và chiều rộng của mắt, độ mỏng và độ khô của mí mắt.
Mõm và răng: Hình dáng của mồm phụ thuộc vào sự phát triển của hàm và môi. Mõm của loại chó to có 42 răng ổn định. Trong số đó có 12 răng cửa, 4 răng nanh và 26 răng hàm. Ở hàm dưới có răng hàm nhiều hơn ở hàm trên là 2 chiếc.
Theo tiêu chuẩn, hàm trên phải lớn hơn hàm dưới một chút, và phải hơi nhô ra phía trước so với hàm dưới. Mức độ ngậm kín của hàm răng gọi là kiểu cắn khít răng, phụ thuộc vào chiều dài của hàm.
Độ cắn khít răng có thể đạt đúng tiêu chuẩn hoặc không đúng tiêu chuẩn. Khi đó, cắn khít răng đúng tiêu chuẩn (hay còn được gọi bằng cách khác là dạng lưỡi kéo), thì toàn bộ bề mặt môi (ngoài) của các răng của hàm dưới nằm lọt phía trong bề mặt lưỡi (trong) của răng cửa hàm trên.
Kiểu cắn khít răng không đúng tiêu chuẩn có thể được biểu thị trong cách cắn - khi rút ngắn xương mặt của hàm trên hoặc trong cách cắn - khi hàm dưới chưa phát triển đầy đủ.
Nếu hàm trên rất ngắn có dạng kìm cắt, khi mà chiều dài của các hàm giống nhau và các răng cửa gặp nhau trực tiếp bằng các bề mặt cắt, thì có thể là kiểu cắn khít của chó bu-tơ-đô. Người ta thường xác định tuổi của chó theo số răng cửa. Nguyên tắc xác định được dựa trên chu kỳ phát triển (mọc), thay và mòn bề mặt cắt của răng, nguyên tắc đó gọi là tam diệp. Ở phần trước của mỗi hàm trên và hàm dưới có 6 răng cửa; 2 răng cửa ở giữa gọi là răng móc, các răng cửa giữa nằm ở 2 phía bên phải và bên trái răng móc, và các răng cửa ngoài cùng gọi là răng khóc.
Dựa vào răng, chỉ có thể theo dõi khá chính xác sự thay đổi tuổi của chó đến khi chó 6 tuổi.
Từ 6 tuổi trở lên, xác định tuổi của chó theo độ mòn của răng tương đối khó. Những hiện tượng sau đây có thể chỉ là những dấu hiệu phụ chỉ tuổi của chó như: răng nanh mòn nhiều, thân răng mòn hoàn toàn và răng biến thành màu vàng, xuất hiện lông bạc trên đầu, trễ môi, mắt trũng và mờ đi. Tuổi trung bình của chó từ 12 - 14 tuổi. Giống chó nhỏ sống lâu hơn giống chó to.
Môi. Môi khô, phác hoạ rõ mồm và môi ướt và xếp, thường có nếp nhăn ở 2 bên mép (thường gọi là môi dầy).
Ngoại hình của cổ: Người ta coi cơ sở của cổ gồm có 7 đốt sống cổ. Chiều dài của cổ phụ thuộc vào chiều dài của thân các đốt sống. Để xác định chiều dài của cổ, người ta so sánh cổ với chiều dài của đầu. Cổ gồm có các phần sau đây: họng cổ, mang cổ và sống cổ. Do uốn nếp và trề của da ở khu vực phía dưới hom dưới và do ở một phần ba phía dưới của cổ gọi là "yếm cổ". Chó có cổ ngắn nhưng to, có nhiều nếp nhăn ở bờm, biểu hiện sự sung sức của nó.
Góc nối cổ với mình gọi là khuỷu cổ. Khuỷu cổ có góc đẹp nhất là 45 độ. Nếu góc lớn hơn hoặc nhỏ hơn sẽ tạo thành khuỷu cổ cao hơn hoặc thấp hơn.
Ngoại hình của mình: mình chó được chia ra thành những phần sau đây: bướu vai lưng, cơ lưng, mông, đuôi và lồng ngực, bụng bẹn, ở chó đực là phần thịt thừa, ở chó cái là vú.
Bướu vai: là phần mình được giới hạn ở phía trước là cổ, ở phía sau là lưng, ở hai bên là bả vai. Cơ sở của bướu vai là 4 - 5 mấu có ngang của đốt sống ngực. Khi đánh giá bướu vai, nên chú ý đến chiều cao, chiều rộng và chiều dài của nó. Bướu vai cao, rộng, tương đối dài và có cơ bắp là tốt.
Lưng: là phần mình giữa bướu vai và thắt lưng, bên phải và bên trái được giới hạn bằng rẻo sườn của lồng ngực. Nó bao gồm khoảng 8 - 9 đốt sống lưng và những đoạn trên của xương sườn. Lưng được đánh giá theo chiều rộng, chiều dài và hình dáng. Người ta thường phân biệt lưng rộng với lưng hẹp, lưng dài với lưng ngắn, lưng võng với lưng gù, lưng mềm với lưng cứng. Lưng thẳng, rộng, dài đều là lưng đẹp.
Eo lưng: là phần mình bị giới hạn bởi lưng ở phía trước, bởi mông ở phía sau và ở hai bên bởi vùng bẹn. Phần co lưng gồm 7 đốt sống của eo lưng có mấu thẳng đứng và nằm ngang.
Đánh giá eo lưng cũng giống như đánh giá lưng, eo lưng võng, thường được gọi là "eo xệ". Chó có eo lưng ngắn, rộng và hơi võng lên là eo lưng đẹp.
Mông: là phần mình bị giới hạn ở phía trước bởi eo lưng, ở phía sau bởi đuôi và hai bên bởi đùi. Xương chậu và xương cùng nằm ở phần mông. Khi đánh giá mông, cần chú ý đến chiều rộng, chiều dài, độ tròn và đường chóp của nó. Mông thường có các dạng như sau: rộng, hẹp, dài, ngắn, phẳng, tròn, thẳng, xệ, hếch và "mông treo". Chó có loại mông tương đối rộng (đặc biệt là chó cái, dài, tròn và hơi xệ là loại chó tốt.
Đuôi: gồm 20 - 22 đốt sống đuôi. Xét theo chiều dài thì đuôi có loại dài, loại ngắn và loại ngắn nhân tạo. Chó có đuôi dài là khi đuôi của nó cụp xuống thì phần tận cùng của đuôi thấp hơn khớp gối, còn nếu khi cụp xuống mà đuôi không đạt tới khớp gối là loại chó có đuôi ngắn hoặc đuôi ngắn nhân tạo. Cắt ngắn đuôi và tai chó với chiều dài đã được tiêu chuẩn công nhận đối với những giống chó quy định nào đó. Xét về mặt hình dáng, người ta phân loại thành: đuôi thẳng, đuôi hình lưỡi câu, hình vành khuyên, hình thanh kiếm, hình lưỡi liềm và hình xoắn ốc.
Ngực và lồng ngực: Phần phía trước của lồng ngực gọi là ngực. Lồng ngực bị giới hạn bởi các bộ phận như sau: ở phía trên là bướu vai và lưng, ở phía dưới là xương ngực, ở phía trước là khoảng trống giữa vai và chỗ bắt đầu cổ họng nối với mình, ở phía sau là những xương sườn cụt. Ngực và lồng ngực được đánh giá theo chiều rộng, chiều dài, chiều sâu, thể tích và hình dáng. Lồng ngực thường có dáng phẳng, ô van cụt, hình thùng (ống). Đối với tất cả các giống chó cần phải có lồng ngực rộng, tương đối sâu và dài.
Chiều rộng của ngực được đo ở phía trước, giữa các khớp vai, chiều sâu được đo theo đường thẳng đứng (đường dây dọi) ngay phía sau của hai chân trước, tính từ bướu vai xuống đến xương ngực, đo vòng ngực bằng thước dây ngay sau chân trước (nách).
Bụng: là phần có thành bụng mềm, đoạn từ xương sườn cụt đến xương chậu. Về hình dáng, bụng thường phải thon đều, béo mỡ và xệ. Đối với tất cả các giống chó cần có dáng bụng thon đều mới tốt.
Ngoại hình của chi: Chi được đánh giá theo dáng thế, vẻ, nở nang của hình dáng và độ mở của các góc khớp.
Chi ngực (chi trước) gồm: xương bả vai, vai, khuỷu (cùi chỏ), cẳng chân, cổ chân, khớp đốt bàn chân và bàn chân.
Tư thế đứng của chó được coi là đúng trong trường hợp nếu các chi được đặt thẳng đứng lên mặt đất, song song với nhau và mở ra bằng chiều rộng của ngực. Bàn chân có hình vòm, các ngón kín sát nhau và áp sát mặt đất. Các góc khớp mở như sau: khớp vai 90 - 1000, khớp khuỷu 120 - 1300. Các khớp phải rộng, có hõm lớn và sạch, không bị hỏng (mất) những đường viền tự nhiên, sờ thấy rõ xương và gân, không bị bệnh.
Những hiện tượng khác thường hay gặp là: cò, khoèo, lệch, thọt chân; thu chân lại dưới mình hoặc choãi chân ra phía trước, khô khớp, các loại bệnh khác về màng, xương, gân và các túi chất nhầy.
Chi sau gồm đùi, gối, cẳng chân, khớp gối, xương bàn chân và bàn chân.
Khi nhìn từ phía sau, các chi sau phải song song với nhau, các chi trước khép lại và có các góc của đốt khớp như sau: góc đùi khoảng 80 - 850, góc gối 125 - 1350, góc mở khớp gối 125 - 1350.
Những yêu cầu khác cũng giống như đối với chân trước vậy.
Những hiện tượng như co khớp đùi, tư thế đứng rộng và hẹp, hình thùng (ống), hình lưỡi kiếm, buông thõng và nhẽo chân (mềm chân ra) được coi là những khuyết tật và những thiếu sót.
Sau nhiều ngày tìm kiếm, đọc và tổng hợp, tôi đã sưu tầm từ nhiều nguồn được một số kiến thức chung xung quanh việc huấn luyện chó. Nay xin được biên tập, tổng hợp lại và gửi lên đây với mục đích duy nhất là chia sẻ cùng anh em, những mong chúng ta sẽ có thêm hiểu biết và nuôi dạy cún cưng của mình tốt nhất.
Xin trân trọng cảm ơn anh BUBBA cũng như toàn thể BQT đã động viên, khích lệ tôi trong quá trình sưu tầm, biên tập, tổng hợp tài liệu này.
Kính mong các bậc tiền bối chỉ dạy, đóng góp thêm để cộng đồng có được những kiến thức về huấn luyện chó hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn các tác giả, các nguồn mà tôi trích tài liệu.
Rất mong các bạn tạm thời không comment tại đây để việc post bài được liền mạch (thay vào đó là nhấn nút "thanks" để … đánh dấu rằng mình đã đọc" =))=))=))
Hoan2008
KIẾN THỨC CHUNG VỀ HUẤN LUYỆN CHÓ
(Tài liệu được tổng hợp, sưu tầm từ các nguồn)
NGUỒN GỐC VÀ LOẠI HÌNH CHÓ
1. Nguồn gốc của chó
Người ta coi chó là con vật đáng tin cậy nhất, được người thuần dưỡng và nuôi thả ở nhà. Sự kiện này diễn ra cách đây khoảng 30 - 40 ngàn năm về trước vào giữa thời kỳ đồ đá, thời kỳ xuất hiện chế độ mẫu hệ.
Chúng ta không biết được chính xác nguồn gốc tổ tiên của chó ngày nay và vì vậy phải đồng ý với ý kiến phần lớn của các nhà bác học đặt ra giả thiết rằng: chó và sói và chó rừng trước kia là tổ tiên của các loài chó đang sống ngày nay. Qua các số liệu khảo cổ học, dân tộc học và qua sự giống nhau về hình thái học, sinh vật học của chó với chó sói và chó rừng, đã chứng minh giả thiết đó là đúng.
2. Ngoại hình chung của chó
Thực tế chăn nuôi thú vật hàng nghìn năm đã chứng minh được rằng, giữa hình dáng bề ngoài, cấu tạo bên trong, những đặc điểm sinh vật học của thú và sức sinh sản của chúng, có sự phụ thuộc nhất định với nhau sự phân chia của khoa học động vật học, như về ngoại hình về cấu tạo (thể tạng) của thú sẽ làm sáng tỏ thêm sự phụ thuộc lẫn nhau này.
Ngoại hình, nghiên cứu về hình dáng và cấu tạo bên ngoài của thú, xác định mối quan hệ với nhau của hình dáng đó đối với các dấu hiệu sinh vật học và khả năng sử dụng được của thú.
Sự hiểu biết về ngoại hình và cấu tạo, cho phép ta nhận được đặc tính của những con vật khác nhau bằng cách đánh giá tương đối nhanh qua cách nhìn thông thường bằng mắt, nghĩa là cho phép ta xác định ngay được giống, giới tính, màu lông, tuổi của con vật, tính cân đối về hình dáng, dự đoán được loại hoạt động thần kinh cao nhất (tính khí) và đi đến kết luận có giá trị kinh tế của con vật. Để có sự hiểu biết chính xác hơn nữa về chó, người ta thường áp dụng cách đo sinh học đơn giản nhất.
Quan sát chó từ nhiều hướng khác nhau: phía trước, phía sau và hai bên sườn ở cự ly 3 - 4 m. Khi đó, chó phải đứng ở tư thế cân đối trên địa thế bằng phẳng và toàn thân dồn đều lên các đầu chi. Đặt thước đo chiều cao và thước dây chia độ đến cm vào gần chó một cách rất nhẹ nhàng để chó không có phản ứng tự vệ. Để xác định đặc tính vận động của chó, người ta thường cho chó đi hoặc chạy vòng quanh. Khái niệm ngoại hình của chó là toàn bộ cơ thể thống nhất của nó, song để cho tiện người ta thường quan sát ngoại hình gồm bốn phần: ngoại hình của đầu, cổ, thân và các chi. Trong mỗi phần người ta lại chia ra thành những mục (các phần của thân thể).
Ngoại hình của đầu: Xương sọ và xương hàm là phần chính của đầu. Đầu được chia thành những phần sau đây: gáy cùng với bờm gáy, đỉnh đầu, tai, trán; ở phần mõm có: mắt, sống mũi, đỉnh mũi, má, hàm trên và hàm dưới, môi, mồm và răng.
Về hình dáng: đầu thường có hình tròn, hình nhọn (chóp), hình vuông và hình chữ nhật. Mõm có thể là dóng mõm ngắn, mõm bình thường và mõm dài, nó tỷ lệ với chiều dài của trán. Mõm có hình cắt khác nhau như: thẳng, hóp, hếch và mõm dáng chó giữ nhà.
Tai: hình dáng và chiều dài của tai rất khác nhau và phụ thuộc vào sự phát triển của sụn vành tai. Phân loại tai ra thành tai đứng (tai chổng), tai chúc, tai cúp và còn có loại tai xẻ (tai xẻ nhân tạo).
Mắt: biểu thị đặc tính theo màu sắc, hình dáng, khe mắt, chiều sâu và chiều rộng của mắt, độ mỏng và độ khô của mí mắt.
Mõm và răng: Hình dáng của mồm phụ thuộc vào sự phát triển của hàm và môi. Mõm của loại chó to có 42 răng ổn định. Trong số đó có 12 răng cửa, 4 răng nanh và 26 răng hàm. Ở hàm dưới có răng hàm nhiều hơn ở hàm trên là 2 chiếc.
Theo tiêu chuẩn, hàm trên phải lớn hơn hàm dưới một chút, và phải hơi nhô ra phía trước so với hàm dưới. Mức độ ngậm kín của hàm răng gọi là kiểu cắn khít răng, phụ thuộc vào chiều dài của hàm.
Độ cắn khít răng có thể đạt đúng tiêu chuẩn hoặc không đúng tiêu chuẩn. Khi đó, cắn khít răng đúng tiêu chuẩn (hay còn được gọi bằng cách khác là dạng lưỡi kéo), thì toàn bộ bề mặt môi (ngoài) của các răng của hàm dưới nằm lọt phía trong bề mặt lưỡi (trong) của răng cửa hàm trên.
Kiểu cắn khít răng không đúng tiêu chuẩn có thể được biểu thị trong cách cắn - khi rút ngắn xương mặt của hàm trên hoặc trong cách cắn - khi hàm dưới chưa phát triển đầy đủ.
Nếu hàm trên rất ngắn có dạng kìm cắt, khi mà chiều dài của các hàm giống nhau và các răng cửa gặp nhau trực tiếp bằng các bề mặt cắt, thì có thể là kiểu cắn khít của chó bu-tơ-đô. Người ta thường xác định tuổi của chó theo số răng cửa. Nguyên tắc xác định được dựa trên chu kỳ phát triển (mọc), thay và mòn bề mặt cắt của răng, nguyên tắc đó gọi là tam diệp. Ở phần trước của mỗi hàm trên và hàm dưới có 6 răng cửa; 2 răng cửa ở giữa gọi là răng móc, các răng cửa giữa nằm ở 2 phía bên phải và bên trái răng móc, và các răng cửa ngoài cùng gọi là răng khóc.
Dựa vào răng, chỉ có thể theo dõi khá chính xác sự thay đổi tuổi của chó đến khi chó 6 tuổi.
Từ 6 tuổi trở lên, xác định tuổi của chó theo độ mòn của răng tương đối khó. Những hiện tượng sau đây có thể chỉ là những dấu hiệu phụ chỉ tuổi của chó như: răng nanh mòn nhiều, thân răng mòn hoàn toàn và răng biến thành màu vàng, xuất hiện lông bạc trên đầu, trễ môi, mắt trũng và mờ đi. Tuổi trung bình của chó từ 12 - 14 tuổi. Giống chó nhỏ sống lâu hơn giống chó to.
Môi. Môi khô, phác hoạ rõ mồm và môi ướt và xếp, thường có nếp nhăn ở 2 bên mép (thường gọi là môi dầy).
Ngoại hình của cổ: Người ta coi cơ sở của cổ gồm có 7 đốt sống cổ. Chiều dài của cổ phụ thuộc vào chiều dài của thân các đốt sống. Để xác định chiều dài của cổ, người ta so sánh cổ với chiều dài của đầu. Cổ gồm có các phần sau đây: họng cổ, mang cổ và sống cổ. Do uốn nếp và trề của da ở khu vực phía dưới hom dưới và do ở một phần ba phía dưới của cổ gọi là "yếm cổ". Chó có cổ ngắn nhưng to, có nhiều nếp nhăn ở bờm, biểu hiện sự sung sức của nó.
Góc nối cổ với mình gọi là khuỷu cổ. Khuỷu cổ có góc đẹp nhất là 45 độ. Nếu góc lớn hơn hoặc nhỏ hơn sẽ tạo thành khuỷu cổ cao hơn hoặc thấp hơn.
Ngoại hình của mình: mình chó được chia ra thành những phần sau đây: bướu vai lưng, cơ lưng, mông, đuôi và lồng ngực, bụng bẹn, ở chó đực là phần thịt thừa, ở chó cái là vú.
Bướu vai: là phần mình được giới hạn ở phía trước là cổ, ở phía sau là lưng, ở hai bên là bả vai. Cơ sở của bướu vai là 4 - 5 mấu có ngang của đốt sống ngực. Khi đánh giá bướu vai, nên chú ý đến chiều cao, chiều rộng và chiều dài của nó. Bướu vai cao, rộng, tương đối dài và có cơ bắp là tốt.
Lưng: là phần mình giữa bướu vai và thắt lưng, bên phải và bên trái được giới hạn bằng rẻo sườn của lồng ngực. Nó bao gồm khoảng 8 - 9 đốt sống lưng và những đoạn trên của xương sườn. Lưng được đánh giá theo chiều rộng, chiều dài và hình dáng. Người ta thường phân biệt lưng rộng với lưng hẹp, lưng dài với lưng ngắn, lưng võng với lưng gù, lưng mềm với lưng cứng. Lưng thẳng, rộng, dài đều là lưng đẹp.
Eo lưng: là phần mình bị giới hạn bởi lưng ở phía trước, bởi mông ở phía sau và ở hai bên bởi vùng bẹn. Phần co lưng gồm 7 đốt sống của eo lưng có mấu thẳng đứng và nằm ngang.
Đánh giá eo lưng cũng giống như đánh giá lưng, eo lưng võng, thường được gọi là "eo xệ". Chó có eo lưng ngắn, rộng và hơi võng lên là eo lưng đẹp.
Mông: là phần mình bị giới hạn ở phía trước bởi eo lưng, ở phía sau bởi đuôi và hai bên bởi đùi. Xương chậu và xương cùng nằm ở phần mông. Khi đánh giá mông, cần chú ý đến chiều rộng, chiều dài, độ tròn và đường chóp của nó. Mông thường có các dạng như sau: rộng, hẹp, dài, ngắn, phẳng, tròn, thẳng, xệ, hếch và "mông treo". Chó có loại mông tương đối rộng (đặc biệt là chó cái, dài, tròn và hơi xệ là loại chó tốt.
Đuôi: gồm 20 - 22 đốt sống đuôi. Xét theo chiều dài thì đuôi có loại dài, loại ngắn và loại ngắn nhân tạo. Chó có đuôi dài là khi đuôi của nó cụp xuống thì phần tận cùng của đuôi thấp hơn khớp gối, còn nếu khi cụp xuống mà đuôi không đạt tới khớp gối là loại chó có đuôi ngắn hoặc đuôi ngắn nhân tạo. Cắt ngắn đuôi và tai chó với chiều dài đã được tiêu chuẩn công nhận đối với những giống chó quy định nào đó. Xét về mặt hình dáng, người ta phân loại thành: đuôi thẳng, đuôi hình lưỡi câu, hình vành khuyên, hình thanh kiếm, hình lưỡi liềm và hình xoắn ốc.
Ngực và lồng ngực: Phần phía trước của lồng ngực gọi là ngực. Lồng ngực bị giới hạn bởi các bộ phận như sau: ở phía trên là bướu vai và lưng, ở phía dưới là xương ngực, ở phía trước là khoảng trống giữa vai và chỗ bắt đầu cổ họng nối với mình, ở phía sau là những xương sườn cụt. Ngực và lồng ngực được đánh giá theo chiều rộng, chiều dài, chiều sâu, thể tích và hình dáng. Lồng ngực thường có dáng phẳng, ô van cụt, hình thùng (ống). Đối với tất cả các giống chó cần phải có lồng ngực rộng, tương đối sâu và dài.
Chiều rộng của ngực được đo ở phía trước, giữa các khớp vai, chiều sâu được đo theo đường thẳng đứng (đường dây dọi) ngay phía sau của hai chân trước, tính từ bướu vai xuống đến xương ngực, đo vòng ngực bằng thước dây ngay sau chân trước (nách).
Bụng: là phần có thành bụng mềm, đoạn từ xương sườn cụt đến xương chậu. Về hình dáng, bụng thường phải thon đều, béo mỡ và xệ. Đối với tất cả các giống chó cần có dáng bụng thon đều mới tốt.
Ngoại hình của chi: Chi được đánh giá theo dáng thế, vẻ, nở nang của hình dáng và độ mở của các góc khớp.
Chi ngực (chi trước) gồm: xương bả vai, vai, khuỷu (cùi chỏ), cẳng chân, cổ chân, khớp đốt bàn chân và bàn chân.
Tư thế đứng của chó được coi là đúng trong trường hợp nếu các chi được đặt thẳng đứng lên mặt đất, song song với nhau và mở ra bằng chiều rộng của ngực. Bàn chân có hình vòm, các ngón kín sát nhau và áp sát mặt đất. Các góc khớp mở như sau: khớp vai 90 - 1000, khớp khuỷu 120 - 1300. Các khớp phải rộng, có hõm lớn và sạch, không bị hỏng (mất) những đường viền tự nhiên, sờ thấy rõ xương và gân, không bị bệnh.
Những hiện tượng khác thường hay gặp là: cò, khoèo, lệch, thọt chân; thu chân lại dưới mình hoặc choãi chân ra phía trước, khô khớp, các loại bệnh khác về màng, xương, gân và các túi chất nhầy.
Chi sau gồm đùi, gối, cẳng chân, khớp gối, xương bàn chân và bàn chân.
Khi nhìn từ phía sau, các chi sau phải song song với nhau, các chi trước khép lại và có các góc của đốt khớp như sau: góc đùi khoảng 80 - 850, góc gối 125 - 1350, góc mở khớp gối 125 - 1350.
Những yêu cầu khác cũng giống như đối với chân trước vậy.
Những hiện tượng như co khớp đùi, tư thế đứng rộng và hẹp, hình thùng (ống), hình lưỡi kiếm, buông thõng và nhẽo chân (mềm chân ra) được coi là những khuyết tật và những thiếu sót.